Ngày Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết The Lady, người đàn bà gan lì, cành hoa lan sắt thép
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Phim mới:
The Lady, người đàn bà gan lì,
cành hoa lan sắt thép
cành hoa lan sắt thép
Tuấn Thảo (RFI) - Aung San Suu Kyi, người đàn bà gan lì, biểu tượng của dân tộc Miến Điện kháng cự lại sự đàn áp của một chế độ độc tài quân phiệt. Từ khi được trao giải Nobel Hòa bình năm 1991, bà Aung San Suu Kyi trở thành hiện thân của phong trào đòi tự do và dân chủ, noi theo tấm gương đấu tranh bất bạo động của bậc tiền bối là Nelson Mandela và nhất là Thánh Gandhi.
Bấm vào đây để xem trailler:
The Lady (2011) Trailer - HD Movie - Luc Besson Movie
Dựa trên kịch bản của tác giả người Anh Rebecca Frayn, đạo diễn nổi tiếng người Pháp Luc Besson đã chuyển thể cuộc đời của Aung San Suu Kyi lên màn ảnh lớn. Bộ phim The Lady với nữ diễn viên Dương Tử Quỳnh (Michelle Yeoh) trong vai chính, vừa được cho ra mắt khán giả Pháp trong tuần này. Bộ phim cũng từng được công chiếu lần đầu tiên vào tháng 9 năm 2011 trong khuôn khổ liên hoan quốc tế điện ảnh Toronto ở Canada.
Trái với những thông tin loan tải trước đây trên mạng, theo đó đạo diễn Pháp Luc Besson đã ấp ủ dự án quay phim này từ nhiều năm qua, thật ra diễn viên Dương Tử Quỳnh mới là người đầu tiên được đọc kịch bản The Lady. Chính cô đã thuyết phục đạo diễn Luc Besson bấm máy thu hình. Bộ phim chủ yếu được quay tại Thái Lan, phần hậu kỳ được thực hiện tại Pháp, chỉ có một số màn ngoại cảnh là được thu lén tại Miến Điện. Để luồn lách sự kiểm duyệt, để thoát khỏi sự kiểm soát của công an, các nhân viên trong đoàn làm phim đã phải giả dạng làm du khách nước ngoài.
Ra đi không ngày mai, hành trình không trở lại
Về nội dung bộ phim The Lady không kể lại toàn bộ cuộc đời của bà Aung San Suu Kyi, mà chỉ tập trung nói về giai đoạn từ những năm 1988 đến năm 1999, hai thời điểm định mệnh trong cuộc đời của người đàn bà gan lì. Vào tháng ba năm 1988, người thân trong gia đình báo tin cho Aung San Suu Kyi là thân mẫu của bà vừa đột qụy. Từ Anh Quốc, bà quyết định rời mái ấm gia đình, trở về Miến Điện để chăm sóc người mẹ đau yếu. Để trấn an chồng con, bà Aung San Suu Kyi nói rằng chuyến đi này chỉ kéo dài có vài tuần lễ, nhưng không ai ngờ rằng đó thật ra là một cuộc hành trình không có ngày trở lại.
Tại bệnh viện thành phố Rangoon, Aung San Suu Kyi chứng kiến tận mắt cảnh quân đội Miến Điện đàn áp đám đông biểu tình. Phong trào xuống đường đòi dân chủ đã bắt đầu từ tháng 5 năm 1988. Áp lực từ đường phố buộc tướng Ne Win, nhân vật số 1 của tập đoàn quân phiệt Miến Điện, phải từ chức. Thế nhưng, người lên thay thế ông (tướng Than Shwe) lại thuộc phe bảo thủ cứng rắn trong hàng ngũ quân đội. Chính quyền ra lệnh thẳng tay đàn áp người biểu tình. Quân đội không ngần ngại nã súng bắn vào đám đông, khiến hàng ngàn người bị thiệt mạng vào ngày 8 tháng 8 năm 1988, nên sự kiện này được gọi là "Biến cố 8888".
Sau cuộc đàn áp đẫm máu, bà Aung San Suu Kyi quyết định dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi dân chủ. Bà nối nghiệp thân phụ là tướng Aung San, được xem như là một vị anh hùng dân tộc vì ông đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc giành độc lập cho Miến Điện. Noi gương người cha, Aung San Suu Kyi đứng lên lãnh đạo phong trào đối lập, bà sát cánh đấu tranh Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD), được thành lập vào ngày 24 tháng 9 năm 1988. Hơn một năm sau, Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ thắng đậm nhân kỳ tổng tuyển cử tổ chức vào tháng 5 năm 1990, nhưng kết quả bầu cử bị chính quyền hoàn toàn phủ nhận.
Đối với giới lãnh đạo tập đoàn quân phiệt, Aung San Suu Kyi cánh chim đầu đàn của phong trào đối lập trở thành một đối thủ hết sức đáng gờm. Các tướng lãnh ra lệnh bằng mọi cách đè bẹp phong trào đấu tranh. Từ hình thức hù dọa, gây áp lực tinh thần cho đến việc bắt giữ, cầm tù hay giam lỏng, chính quyền chĩa mũi dùi vào Aung San Suu Kyi và các bạn hữu đồng hành. Càng bị trấn áp, bà lại càng gan lì. Một trong những màn biểu tượng của bộ phim là khi bà đứng trước một hàng lính giăng ngang chặn đường, các binh lính đã nộp đạn nhắm bắn, ngón tay sẵn sàng bấm cò. Thay vì hãi sợ thụt lùi, Aung San Suu Kyi lại bước tới phiá trước, bất kể các mũi súng đang dí vào mặt.
1988 - 1999 : Hai thời điểm định mệnh
Trong phim, nếu như ngày 8 tháng 8 năm 1988 là cột mốc lịch sử đầu tiên, thì năm 1999 đánh dấu thời điểm quan trọng thứ nhì. Đó là năm mà giáo sư người Anh Michael Aris (do Daniel Thewlis thủ vai), chồng của bà Aung San Suu Kyi qua đời vì bệnh ung thư. Nổi danh là một chuyên gia về văn hoá Tây Tạng thuộc trường đại học Oxford, ông Michael Aris thành hôn với bà Aung San Suu Kyi vào năm 1972. Nhân vật người chồng chiếm một vị trí quan trọng ở trong bộ phim The Lady. Vì chính ông khuyên vợ đừng mềm lòng nản chí, đừng vì chuyện nhà mà quên chuyện nước, đừng hy sinh cuộc đấu tranh cho dân tộc, chỉ vì ích kỷ cá nhân hay hạnh phúc bản thân.
Vào năm 1997, giới bác sĩ chẩn đoán phát hiện ông Michael Aris bị bệnh ung thư. Dù đã nhiều năm xa cách, nhưng ông không nỡ đòi vợ trở về Anh Quốc để chăm sóc bệnh tình cho ông. Vào lúc đó, chính quyền Miến Điện sẵn sàng để cho bà Aung San Suu Kyi lên máy bay sang Luân Đôn, vì lý do gia đình. Hù dọa không xong mà giam cầm cũng vô hiệu quả, nên chính quyền mới chuyển sang hình thức mua chuộc, mặc cả tình cảm. Theo lời khuyên của chồng, bà Aung San Suu Kyi quyết định ở lại, vì bà thừa hiểu rằng chính quyền muốn tống bà ra khỏi Miến Điện : một khi về thăm chồng, bà sẽ không còn được trở lại quê cha.
Ông Michael Aris qua đời hai năm sau đó, để lại hai đứa con mồ côi. Aung San Suu Kyi tiếp tục bị giam lỏng, không được nhìn mặt chồng bà một lần cuối. Bà nói : ở một đất nước thật sự tự do, thì không có ai bị buộc phải có một sự chọn lựa đớn đau đến như vậy. Lựa chọn theo kiểu này thì chẳng thà không chọn lựa còn hơn. Bộ phim do khép lại vào thời điểm này, kết thúc một cách lưng chừng, bỏ lửng. Aung San Suu Kyi kiên trì đấu tranh mà vẫn chưa thấy tia ánh sáng hy vọng ở cuối đường hầm u tối. Nhưng từ người đàn bà sắt thép này lại lóe lên một vầng hào quang sáng ngời tuyệt đối. Cái chết của ông Michael Aris nói riêng và của những người đấu tranh với bà nói chung không trở nên vô nghĩa, mà lại thắp sáng thêm niềm tin của một tâm hồn bất khuất.
Bi kịch gia đình, thảm kịch quốc gia
Bộ phim The Lady của đạo diễn Pháp Luc Besson có cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Ưu điểm đầu tiên là Luc Besson đã phần nào thay đổi phong cách làm phim của mình. Nổi tiếng là một người chuyên quay phim hành động, chuộng kỹ xảo và nhịp điệu dồn dập, đạo diễn Pháp lần này buộc phải tập trung vào các diễn biến nội tâm của hai nhân vật chính. Nhà làm phim xen kẻ khá tài tình các màn qua cận ảnh với thủ pháp các màn quay toàn cảnh, hàm ý Aung San Suu Kyi và vận mệnh dân tộc Miến Điện, tuy hai mà chỉ là một.
Một cách tương tự, các nhân vật Michael Aris và Aung San Suu Kyi là hai tâm hồn đồng nhất, khi thực sự là một nửa của nhau. Đó là những vai diễn bằng vàng, nếu không nói là để đời. Về điểm này, phải công nhận là Dương Tử Quỳnh nhập vai một cách xuất thần. Cô học tiếng Miến Điện, học từng động tác điệu bộ của Aung San Suu Kyi qua phóng sự truyền hình hay phim tài liệu cho thấy bà xuất hiện trước công chúng.
Tuy có nét mặt hao hao như Aung San Suu Kyi, nhưng Dương Tử Quỳnh lại còn nhịn ăn để gầy hẳn đi, làm cho nét tiều tụy hiện lên trên nhan sắc để có thể gần giống hơn nữa với vai diễn. Cô đã được dịp đến Miến Điện gặp bà Aung San Suu Kyi lần đầu tiên vào cuối năm 2010, trước khi đoàn làm phim chuẩn bị bấm máy thu hình tại Thái Lan. Sau chuyến đi này, Dương Tử Quỳnh bị đưa vào sổ đen, vì khi trở lại thăm bà Aung San Suu Kyi lần thứ nhì vào tháng 6 năm 2011 cô đã bị chặn lại tại sân bay, không được phép nhập cảnh, rồi bị trục xuất khỏi Miến Điện.
Diễn viên Dương Tử Quỳnh và đạo diễn Pháp Luc Besson đều cho biết là công chúng thường nhìn bà Aung San Suu Kyi như là một biểu tượng đấu tranh cho tự do và dân chủ, ngược lại ít ai biết đến chồng bà là giáo sư Michael Aris. Kịch bản của tác giả người Anh Rebecca Frayn, ngay từ đầu đã chọn quan hệ giữa hai vợ chồng làm điểm nhấn, trong những năm tháng đau khổ, những giây phút cam go. Theo cách đọc này, tình thương là động lực thôi thúc, duy trì ngọn lửa thiêng đối với nhà tranh đấu.
Phụ nữ gan lì, hoa lan sắt thép
Vào những năm 1990, Aung San Suu Kyi từng viết về sự đấu tranh của bà trong quyển sách mang tựa đề “Freedom from Fear” (tạm dịch là Vượt lên sự sợ hãi). Nhưng lãnh đạo đối lập Miến Điện hầu như không bao giờ nói về đời tư hay tiết lộ chuyện gia đình. Kịch bản bộ phimThe Lady khi tập trung nói về mối tình của cặp vợ chồng này buộc phải điền vào chỗ trống. Nhân vật Aung San Suu Kyi vì thế mà càng trở nên lãng mạn giống như tiểu thuyết. Tác phẩmThe Lady tuy gọi là phim tiểu sử (biopic), nhưng thật ra là một bộ phim tình cảm, có nhiều đoạn cảm động nhưng cũng có màn hơi cường điệu.
Thông thường, một bộ phim theo thể loại này thường lồng tiểu sử vào lịch sử, kể một câu chuyện nhỏ để làm nổi bật câu chuyện lớn. Khuyết điểm của bộ phim The Lady là tác phẩm bị mất cân đối do đạo diễn Luc Besson tập trung quá nhiều vào mối tình của cặp vợ chồng Aung San Suu Kyi, mà chỉ nhìn lướt qua bức tranh toàn cảnh của đất nước Miến Điện. Điển hình là màn mở đầu bộ phim cho thấy cảnh ám sát thân phụ của Aung San Suu Kyi vào năm 1947, nhưng khán giả không biết vì lý do nào. Các sự kiện có thật thường chỉ được phác họa, cho nên khó có thể giúp cho người xem nắm bắt để hiểu rõ thêm về bề dày lịch sử.
Suy cho cùng, bộ phim The Lady nói về hai tấn bi kịch diễn ra cùng lúc : một bên là bi kịch gia đình bà Aung San Suu Kyi và một bên là bi kịch của dân tộc Miến Điện. Nếu cả hai vế bổ túc cho nhau, thì hẳn chắc là bộ phim The Lady sẽ càng có nhiều chiều sâu hơn nữa. Nhưng điều mà người xem có thể cảm nhận rõ nhất là nghị lực và ý chí của bà Aung San Suu Kyi : một vóc dáng mong manh mà bản lĩnh gan lì, một nhánh lan mềm mại nhưng cành hoa sắt thép.
Tuấn Thảo
Nguồn : RFI
Ra đi không ngày mai, hành trình không trở lại
Về nội dung bộ phim The Lady không kể lại toàn bộ cuộc đời của bà Aung San Suu Kyi, mà chỉ tập trung nói về giai đoạn từ những năm 1988 đến năm 1999, hai thời điểm định mệnh trong cuộc đời của người đàn bà gan lì. Vào tháng ba năm 1988, người thân trong gia đình báo tin cho Aung San Suu Kyi là thân mẫu của bà vừa đột qụy. Từ Anh Quốc, bà quyết định rời mái ấm gia đình, trở về Miến Điện để chăm sóc người mẹ đau yếu. Để trấn an chồng con, bà Aung San Suu Kyi nói rằng chuyến đi này chỉ kéo dài có vài tuần lễ, nhưng không ai ngờ rằng đó thật ra là một cuộc hành trình không có ngày trở lại.
The Lady kể lại một phần cuộc đời của Aung San Suu Kyi
Tại bệnh viện thành phố Rangoon, Aung San Suu Kyi chứng kiến tận mắt cảnh quân đội Miến Điện đàn áp đám đông biểu tình. Phong trào xuống đường đòi dân chủ đã bắt đầu từ tháng 5 năm 1988. Áp lực từ đường phố buộc tướng Ne Win, nhân vật số 1 của tập đoàn quân phiệt Miến Điện, phải từ chức. Thế nhưng, người lên thay thế ông (tướng Than Shwe) lại thuộc phe bảo thủ cứng rắn trong hàng ngũ quân đội. Chính quyền ra lệnh thẳng tay đàn áp người biểu tình. Quân đội không ngần ngại nã súng bắn vào đám đông, khiến hàng ngàn người bị thiệt mạng vào ngày 8 tháng 8 năm 1988, nên sự kiện này được gọi là "Biến cố 8888".
Sau cuộc đàn áp đẫm máu, bà Aung San Suu Kyi quyết định dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi dân chủ. Bà nối nghiệp thân phụ là tướng Aung San, được xem như là một vị anh hùng dân tộc vì ông đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc giành độc lập cho Miến Điện. Noi gương người cha, Aung San Suu Kyi đứng lên lãnh đạo phong trào đối lập, bà sát cánh đấu tranh Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD), được thành lập vào ngày 24 tháng 9 năm 1988. Hơn một năm sau, Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ thắng đậm nhân kỳ tổng tuyển cử tổ chức vào tháng 5 năm 1990, nhưng kết quả bầu cử bị chính quyền hoàn toàn phủ nhận.
Đối với giới lãnh đạo tập đoàn quân phiệt, Aung San Suu Kyi cánh chim đầu đàn của phong trào đối lập trở thành một đối thủ hết sức đáng gờm. Các tướng lãnh ra lệnh bằng mọi cách đè bẹp phong trào đấu tranh. Từ hình thức hù dọa, gây áp lực tinh thần cho đến việc bắt giữ, cầm tù hay giam lỏng, chính quyền chĩa mũi dùi vào Aung San Suu Kyi và các bạn hữu đồng hành. Càng bị trấn áp, bà lại càng gan lì. Một trong những màn biểu tượng của bộ phim là khi bà đứng trước một hàng lính giăng ngang chặn đường, các binh lính đã nộp đạn nhắm bắn, ngón tay sẵn sàng bấm cò. Thay vì hãi sợ thụt lùi, Aung San Suu Kyi lại bước tới phiá trước, bất kể các mũi súng đang dí vào mặt.
1988 - 1999 : Hai thời điểm định mệnh
Trong phim, nếu như ngày 8 tháng 8 năm 1988 là cột mốc lịch sử đầu tiên, thì năm 1999 đánh dấu thời điểm quan trọng thứ nhì. Đó là năm mà giáo sư người Anh Michael Aris (do Daniel Thewlis thủ vai), chồng của bà Aung San Suu Kyi qua đời vì bệnh ung thư. Nổi danh là một chuyên gia về văn hoá Tây Tạng thuộc trường đại học Oxford, ông Michael Aris thành hôn với bà Aung San Suu Kyi vào năm 1972. Nhân vật người chồng chiếm một vị trí quan trọng ở trong bộ phim The Lady. Vì chính ông khuyên vợ đừng mềm lòng nản chí, đừng vì chuyện nhà mà quên chuyện nước, đừng hy sinh cuộc đấu tranh cho dân tộc, chỉ vì ích kỷ cá nhân hay hạnh phúc bản thân.
Vào năm 1997, giới bác sĩ chẩn đoán phát hiện ông Michael Aris bị bệnh ung thư. Dù đã nhiều năm xa cách, nhưng ông không nỡ đòi vợ trở về Anh Quốc để chăm sóc bệnh tình cho ông. Vào lúc đó, chính quyền Miến Điện sẵn sàng để cho bà Aung San Suu Kyi lên máy bay sang Luân Đôn, vì lý do gia đình. Hù dọa không xong mà giam cầm cũng vô hiệu quả, nên chính quyền mới chuyển sang hình thức mua chuộc, mặc cả tình cảm. Theo lời khuyên của chồng, bà Aung San Suu Kyi quyết định ở lại, vì bà thừa hiểu rằng chính quyền muốn tống bà ra khỏi Miến Điện : một khi về thăm chồng, bà sẽ không còn được trở lại quê cha.
Ông Michael Aris qua đời hai năm sau đó, để lại hai đứa con mồ côi. Aung San Suu Kyi tiếp tục bị giam lỏng, không được nhìn mặt chồng bà một lần cuối. Bà nói : ở một đất nước thật sự tự do, thì không có ai bị buộc phải có một sự chọn lựa đớn đau đến như vậy. Lựa chọn theo kiểu này thì chẳng thà không chọn lựa còn hơn. Bộ phim do khép lại vào thời điểm này, kết thúc một cách lưng chừng, bỏ lửng. Aung San Suu Kyi kiên trì đấu tranh mà vẫn chưa thấy tia ánh sáng hy vọng ở cuối đường hầm u tối. Nhưng từ người đàn bà sắt thép này lại lóe lên một vầng hào quang sáng ngời tuyệt đối. Cái chết của ông Michael Aris nói riêng và của những người đấu tranh với bà nói chung không trở nên vô nghĩa, mà lại thắp sáng thêm niềm tin của một tâm hồn bất khuất.
Bi kịch gia đình, thảm kịch quốc gia
Bộ phim The Lady của đạo diễn Pháp Luc Besson có cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Ưu điểm đầu tiên là Luc Besson đã phần nào thay đổi phong cách làm phim của mình. Nổi tiếng là một người chuyên quay phim hành động, chuộng kỹ xảo và nhịp điệu dồn dập, đạo diễn Pháp lần này buộc phải tập trung vào các diễn biến nội tâm của hai nhân vật chính. Nhà làm phim xen kẻ khá tài tình các màn qua cận ảnh với thủ pháp các màn quay toàn cảnh, hàm ý Aung San Suu Kyi và vận mệnh dân tộc Miến Điện, tuy hai mà chỉ là một.
Một cách tương tự, các nhân vật Michael Aris và Aung San Suu Kyi là hai tâm hồn đồng nhất, khi thực sự là một nửa của nhau. Đó là những vai diễn bằng vàng, nếu không nói là để đời. Về điểm này, phải công nhận là Dương Tử Quỳnh nhập vai một cách xuất thần. Cô học tiếng Miến Điện, học từng động tác điệu bộ của Aung San Suu Kyi qua phóng sự truyền hình hay phim tài liệu cho thấy bà xuất hiện trước công chúng.
Tuy có nét mặt hao hao như Aung San Suu Kyi, nhưng Dương Tử Quỳnh lại còn nhịn ăn để gầy hẳn đi, làm cho nét tiều tụy hiện lên trên nhan sắc để có thể gần giống hơn nữa với vai diễn. Cô đã được dịp đến Miến Điện gặp bà Aung San Suu Kyi lần đầu tiên vào cuối năm 2010, trước khi đoàn làm phim chuẩn bị bấm máy thu hình tại Thái Lan. Sau chuyến đi này, Dương Tử Quỳnh bị đưa vào sổ đen, vì khi trở lại thăm bà Aung San Suu Kyi lần thứ nhì vào tháng 6 năm 2011 cô đã bị chặn lại tại sân bay, không được phép nhập cảnh, rồi bị trục xuất khỏi Miến Điện.
Diễn viên Dương Tử Quỳnh và đạo diễn Pháp Luc Besson đều cho biết là công chúng thường nhìn bà Aung San Suu Kyi như là một biểu tượng đấu tranh cho tự do và dân chủ, ngược lại ít ai biết đến chồng bà là giáo sư Michael Aris. Kịch bản của tác giả người Anh Rebecca Frayn, ngay từ đầu đã chọn quan hệ giữa hai vợ chồng làm điểm nhấn, trong những năm tháng đau khổ, những giây phút cam go. Theo cách đọc này, tình thương là động lực thôi thúc, duy trì ngọn lửa thiêng đối với nhà tranh đấu.
Phụ nữ gan lì, hoa lan sắt thép
Vào những năm 1990, Aung San Suu Kyi từng viết về sự đấu tranh của bà trong quyển sách mang tựa đề “Freedom from Fear” (tạm dịch là Vượt lên sự sợ hãi). Nhưng lãnh đạo đối lập Miến Điện hầu như không bao giờ nói về đời tư hay tiết lộ chuyện gia đình. Kịch bản bộ phimThe Lady khi tập trung nói về mối tình của cặp vợ chồng này buộc phải điền vào chỗ trống. Nhân vật Aung San Suu Kyi vì thế mà càng trở nên lãng mạn giống như tiểu thuyết. Tác phẩmThe Lady tuy gọi là phim tiểu sử (biopic), nhưng thật ra là một bộ phim tình cảm, có nhiều đoạn cảm động nhưng cũng có màn hơi cường điệu.
Thông thường, một bộ phim theo thể loại này thường lồng tiểu sử vào lịch sử, kể một câu chuyện nhỏ để làm nổi bật câu chuyện lớn. Khuyết điểm của bộ phim The Lady là tác phẩm bị mất cân đối do đạo diễn Luc Besson tập trung quá nhiều vào mối tình của cặp vợ chồng Aung San Suu Kyi, mà chỉ nhìn lướt qua bức tranh toàn cảnh của đất nước Miến Điện. Điển hình là màn mở đầu bộ phim cho thấy cảnh ám sát thân phụ của Aung San Suu Kyi vào năm 1947, nhưng khán giả không biết vì lý do nào. Các sự kiện có thật thường chỉ được phác họa, cho nên khó có thể giúp cho người xem nắm bắt để hiểu rõ thêm về bề dày lịch sử.
Suy cho cùng, bộ phim The Lady nói về hai tấn bi kịch diễn ra cùng lúc : một bên là bi kịch gia đình bà Aung San Suu Kyi và một bên là bi kịch của dân tộc Miến Điện. Nếu cả hai vế bổ túc cho nhau, thì hẳn chắc là bộ phim The Lady sẽ càng có nhiều chiều sâu hơn nữa. Nhưng điều mà người xem có thể cảm nhận rõ nhất là nghị lực và ý chí của bà Aung San Suu Kyi : một vóc dáng mong manh mà bản lĩnh gan lì, một nhánh lan mềm mại nhưng cành hoa sắt thép.
Tuấn Thảo
Nguồn : RFI
Aung San Suu Kyi: Biểu tượng của khát vọng dân chủ
Nam Anh (Tạp chí Phía Trước) dịch - Cũng như nhà lãnh đạo Nam Phi Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi đã trở thành biểu tượng quốc tế của cuộc đấu tranh dũng cảm và hòa bình trước sự áp bức.
Đối với người dân Miến Điện, Aung San Suu Kyi là hiện thân của những gì tốt đẹp nhất và có thể là niềm hi vọng duy nhất rằng một ngày kia, đất nước sẽ không còn nằm dưới sự cai trị của chế độ quân phiệt.
Là một nhà hoạt động dân chủ và là lãnh đạo của đảng đối lập Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ (National League for Democracy party – NLD), trong vòng 17 năm vừa qua, bà đã trải qua hơn 10 năm dưới sự quản thúc của chế độ quân phiệt Miến Điện.
Năm 1991, bà đã được giải thưởng Nobel Hòa bình vì những nỗ lực dân chủ hóa Miến Điện. Tại buổi lễ trao giải, Chủ tịch Hội đồng xét giải Nobel Hòa bình, Francis Sejested, đã gọi bà là “một ví dụ nổi bật về sức mạnh của những người không có quyền hành”.Sau một thời gian ở hải ngoại, Aung San Suu Kyi trở lại Miến Điện năm 1988.
Giam lỏng
Ngay sau khi quay lại, bà đã bị quản chế tại gia ở Rangoon trong 6 năm, tới khi bà được trả tự do vào tháng 7 năm 1995. Bà lại bị quản chế vào tháng 9 năm 2000, khi bà cố gắng đi tới thành phố Mandalay như là một sự thách thức đối với lệnh hạn chế di chuyển.
Bà được thả vô điều kiện vào tháng 5/2002, nhưng chỉ 1 năm sau, bà đã bị bắt vào tù sau cuộc đụng độ giữa những người ủng hộ và đám du thủ du thực hỗ trợ bởi chính quyền quân phiệt.
Sau cuộc giải phẫu phụ khoa tháng 9 năm 2003, bà được phép trở về nhà, nhưng vẫn bị quản chế. Trong những thời kì bị giam cầm, bà Aung San Suu Kyi đã tận dụng để nghiên cứu và tập thể dục. Bà đã ngồi thiền, học tiếng Pháp và tiếng Nhật, cũng như giải trí bằng cách đánh những bản nhạc của Bach trên đàn piano. Thời gian gần đây, bà được cho phép gặp những đảng viên cao cấp của NLD, và được cho phép gặp một số nhà ngoại giao như đặc phái viên Liên Hiệp Quốc Razali Ismail.
Trước đó, bà Aung San Suu Kyi thường bị biệt giam, không được gặp hai đứa con trai của bà hoặc chồng – một học giả người Anh Micheal Aris. Tháng 3 năm 1999, bà đau đớn khôn cùng khi biết chồng bà đã mất vì bệnh ung thư. Chính quyền quân phiệt đã cho phép bà tới Anh để nhìn mặt chồng lần cuối, nhưng bà đã từ chối đề nghị này vì lo ngại rằng bà sẽ không được phép quay lại Miến Điện. Aung San Suu Kyi thường nói rằng việc bắt giữ bà chỉ khiến bà cương quyết hơn trong việc hi sinh phần đời còn lại cho những người dân Miến Điện. Đặc phái viên Liên Hiệp Quốc Razali Ismail đã nói rằng bà là một trong những người ấn tượng nhất mà ông từng gặp.
Cuộc sống tại hải ngoại
Bà Aung San Suu Kyi là con gái của anh hùng giải phóng dân tộc – tướng Aung San. Ông đã bị ám sát trong thời kì chuyển tiếp tháng 7 năm 1947, chỉ 6 tháng trước khi Miến Điện độc lập. Bà Aung San Suu Kyi chỉ có 2 tuổi vào thời điểm đó.
Năm 1960, bà đến Ấn Độ với mẹ bà – Daw Khin Kyi, người được chỉ định là đại sứ Miến Điện tại Delhi. Bốn năm sau, bà đến học trường đại học Oxford tại Anh, nơi đây bà đã học triết học, chính trị học và kinh tế học. Cũng tại đây, bà đã gặp người chồng tương lai.
Sau khi thôi sống và làm việc tại Nhật và Bhutan, bà ổn định cuộc sống với vai trò một người nội trợ và nuôi nấng hai người con, Alexander và Kim. Nhưng Miến Điện không bao giờ rời khỏi tâm trí của bà. Khi bà trở lại Rangoon vào năm 1988 – lúc đầu để chăm sóc mẹ đang lâm bạo bệnh – Miến Điện đang là trung tâm của những biến động chính trị lớn. Hàng ngàn sinh viên, người lao động và sư sãi đã xuống đường để đòi hỏi dân chủ hóa.
Bà đã tuyên bố trong một bài diễn văn ở Rangoon, 26 tháng 8 năm 1988: “Tôi không thể, với tư cách là con gái của ba tôi, im lặng trước những gì đang diễn ra.”
Và bà Aung San Suu Kyi đã nhanh chóng trở thành thủ lãnh của cuộc nổi dậy chống tướng độc tài Ne Win. Chịu ảnh hưởng bởi phong trào đấu tranh bất bạo động cho dân quyền của người Mỹ da đen của mục sư Martin Luther King và Thánh Mahatma Gandhi ở Ấn Độ, bà đã tổ chức những cuộc xuống đường và đi khắp đất nước, kêu gọi cho cải cách dân chủ một cách hòa bình và bầu cử tự do. Nhưng những cuộc biểu tình đã nhanh chóng bị đàn áp bởi quân đội, những người nắm quyền sau cuộc đảo chính ngày 18 tháng 9 năm 1988. Chính quyền quân phiệt đã tổ chức bầu cử tháng 5 năm 1990. Đảng Liên đoàn quốc gia vì Dân chủ của bà đã thắng thuyết phục trong cuộc bầu cử, mặc dù bà vẫn bị giam lỏng và không được cho phép ra ứng cử.
Nhưng chính quyền quân phiệt đã từ chối chuyển giao quyền lực, và đã tiếp tục nắm quyền đến tận bây giờ.
Một số cột mốc trong tiểu sử bà AUNG SAN SUU KYI
1989: Bị quản chế tại gia vì những lãnh đạo Miến Điện tuyên bố tình trạng thiết quân luật.
1990: đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân Chủ (NLD) đã thắng trong cuộc tổng tuyển cử, quân đội đã không công nhận kết quả.
1990: Giải nhân quyền Rafto
1991: Giải Nobel Hòa bình
1995: được trả tự do, nhưng bị hạn chế di chuyển
2000-02: bị quản chế tại gia lần thứ hai
Tháng 5/2003: bị bắt sau cuộc đụng độ giữa NLD và lực lượng của chính phủ
Tháng 9/2003: được cho phép chữa trị bệnh, nhưng vẫn bị quản chế
© BBC MMVII
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét