Ngày Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Bệnh tật và cái chết của văn nhân: Phạm Quỳnh
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Bệnh tật và cái chết của văn nhân: Phạm Quỳnh
PHẠM QUỲNH (1890 – 1945)
I – Thân thế:
Sinh năm 1890 lại quê nhà ở làng Thượng Hồng tỉnh Hải Dương, cuộc đời Phạm Quỳnh có thể chia làm hai phần: một giai đoạn viết báo và một giai đoạn làm chính trị:
1) – Giai đoạn viết báo:
Khởi đầu Phạm Quỳnh cộng tác với Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh từ năm 1913 nhưng năm 1917 ông đứng riêng ra lập tờ Nam Phong Tạp Chí.
Từ 1917 cho đến 1934 vị chi trong suốt 17 năm tờ Nam Phong ra đều đặn hàng tháng tất cả được 210 số. Trong giai đoạn này, Phạm Quỳnh viết rất nhiều, đủ loại và đủ lĩnh vực : Dịch thuật, khảo cứu, phê bình, truớc tác, bình luận, văn học, triết học , chính trị.
2) – Giai đoạn làm chính trị:
Từ 1934 đến 1945, ông phục vụ Nam Triều làm thượng thư Bộ Lại rồi thượng thư Bộ Giáo Dục.
I I – Văn nghiệp:
Chúng ta có thể xếp tác phẩm của Phạm Quỳnh làm nhiều loại khác nhau :
1) – Loại trước tác:
- Ba Tháng ở Paris (Nam Phong Tùng Thư, 1927)
- Muời Ngày ở Huế (Nam Phong, số 101)
- Một Tháng ỏ Nam Kỳ (Nam Phong số 17- 19 – 20)
- Muời Ngày ở Huế (Nam Phong, số 101)
- Một Tháng ỏ Nam Kỳ (Nam Phong số 17- 19 – 20)
2) – Loại phê bình :
- Một Tấm Lòng (Nam Phong, số 2)
- Mộng hay Mị, Phê Bình Giấc Mộng Con của Tản Đà (Nam Phong, số 7)
- Pháp Văn Tiểu Thuyết Bình Luận (Nam Phong, số 9)
- Mộng hay Mị, Phê Bình Giấc Mộng Con của Tản Đà (Nam Phong, số 7)
- Pháp Văn Tiểu Thuyết Bình Luận (Nam Phong, số 9)
3) – Loại dịch thuật
- Tuồng Lôi Xích ( Le Cid của Corneille, Nam Phong số 38-39)
- Hoà Lạc (Horace của Corneille, Nam Phong số 73-74-75)
- Ái Tình ( L’Amour của Guy de Maupassant)
- Ôi Thiều Niên (Ô Jeunesse của Corneille, Nam Phong, 1929)
- Đời Đạo Lý ( La Vie Sage của Paul Carton, Nam Phong 1929- 1932)
- Phương Pháp Luận (Discours de la Méthode của Descartes, N.P. sổ 3-4-5
- Cách Ngôn (Proverbes của Épictète)
- Hoà Lạc (Horace của Corneille, Nam Phong số 73-74-75)
- Ái Tình ( L’Amour của Guy de Maupassant)
- Ôi Thiều Niên (Ô Jeunesse của Corneille, Nam Phong, 1929)
- Đời Đạo Lý ( La Vie Sage của Paul Carton, Nam Phong 1929- 1932)
- Phương Pháp Luận (Discours de la Méthode của Descartes, N.P. sổ 3-4-5
- Cách Ngôn (Proverbes của Épictète)
4) – Loại khảo cứu:
- Văn Minh Luận ( Nam Phong số 42)
- Khảo cứu về các luân lý học thuyết của Thái Tây (Nam Phong từ số 92)
- Thế giới tiến bộ sử (Nam Phong từ số 51)
- Lịch sử về học thuyết của Jean-Jacques Rousseau ( Nam Phong từ số 104)
- Lich sử về học thuyết của Montesquieu ( Nam Phong từ số 108)
- Lịch sử về học thuyết của Voltaire (Nam Phong số 114 và 115)
- Học thuyết Auguste Comte (Nam Phong số 138)
- Học thuyết Bergson (Nam Phong số 150)
- Khảo cứu về tiểu thuyết (Nam Phong 1929)
- Pháp văn thi thoại : Baudelaire (Nam Phong số 6)
- Pierre Loti – Anatole France
- Phật giáo lược khảo (Nam Phong số 40)
- Phật giáo đại quan (Nam Phong 1921)
- Quan niễm về người quân tử trong đạo Khổng (Nam Phong 1928)
- Tục ngữ ca dao (Nam Phong số 46)
- Văn chương trong lố hát ả đào (Nam Phong số 69)
- Hán Việt văn tự ( Nam Phong số 107)
- Việt Nam thi ca (Nam Phong số 64)
- Khảo cứu về các luân lý học thuyết của Thái Tây (Nam Phong từ số 92)
- Thế giới tiến bộ sử (Nam Phong từ số 51)
- Lịch sử về học thuyết của Jean-Jacques Rousseau ( Nam Phong từ số 104)
- Lich sử về học thuyết của Montesquieu ( Nam Phong từ số 108)
- Lịch sử về học thuyết của Voltaire (Nam Phong số 114 và 115)
- Học thuyết Auguste Comte (Nam Phong số 138)
- Học thuyết Bergson (Nam Phong số 150)
- Khảo cứu về tiểu thuyết (Nam Phong 1929)
- Pháp văn thi thoại : Baudelaire (Nam Phong số 6)
- Pierre Loti – Anatole France
- Phật giáo lược khảo (Nam Phong số 40)
- Phật giáo đại quan (Nam Phong 1921)
- Quan niễm về người quân tử trong đạo Khổng (Nam Phong 1928)
- Tục ngữ ca dao (Nam Phong số 46)
- Văn chương trong lố hát ả đào (Nam Phong số 69)
- Hán Việt văn tự ( Nam Phong số 107)
- Việt Nam thi ca (Nam Phong số 64)
5) – Tác phẩm viết bằng Pháp văn:
- La poésie Annamite (Nam Phong 1931)
- Le Paysan Tonlinois à travers son parler (Nam Phong 1931)
- L’ Idéal du sage dans la philosophie confucéenne
- Essais Franco-Annamites
- Le Paysan Tonlinois à travers son parler (Nam Phong 1931)
- L’ Idéal du sage dans la philosophie confucéenne
- Essais Franco-Annamites
I I I– Bệnh tật:
Theo lời thuật của bà Phạm Thị Hảo, trưởng nữ Phạm Quỳnh thì ông là người mạnh khỏe, cao 1,73m nặng 65kg (như có ghi trong căn cước). bị cận thị mắt phải – 3 dioptries, mắt trái – 0.25 dioptries, không hút thuốc không uống rượu, ăn uống điều độ và phải kiêng cữ vì bịnh đau bao tử.
1) – Bệnh trạng:
Do độ acide chlorydrique trong dạ dầy cao hơn bình thường nên Phạm Quỳnh hay ợ chua sình bụng , khi đói bụng đau ngầm ngầm chứ không bao giờ đau từng cơn dữ dội.
Chứng đau bao tử không bộc phát vì Phạm Quỳnh thấy cứ ăn xôi thì không bị đau và luôn uống Magnésie bismuthée. Vì thế ông chấp nhận kiêng cữ từ lúc còn trẻ. Ngày 2 bữa cơm nếp hoa75c ăn súp theo lối cơm tây.. Ngay những lúc yến tiệc trong triều, ông cũng kiêng cữ cẩn thận.
Chứng đau bao tử không bộc phát vì Phạm Quỳnh thấy cứ ăn xôi thì không bị đau và luôn uống Magnésie bismuthée. Vì thế ông chấp nhận kiêng cữ từ lúc còn trẻ. Ngày 2 bữa cơm nếp hoa75c ăn súp theo lối cơm tây.. Ngay những lúc yến tiệc trong triều, ông cũng kiêng cữ cẩn thận.
2) – Biến chứng:
Năm 1934, sau một bữa tiệc trong triều về đến nhà ông bị nôn mửa và thổ huyết. Gia đình nghi bị đầu độc nên mời y sĩ rửa ruột, ông qua khỏi và bệnh không tái phát.
3) – Suy luận :
Theo những triệu chứng đã kể như đau bụng khi đói, một lần thổ
huyết, và hiệu quả của việc ăn kiêng uống thuốc, chúng ta có thể nghĩ là Phạm Quỳnh bị bệnh loét bao tử không bộc phát (Ulcère gastro-duodénal latent) nhờ ông biết kiêng cữ và uống thuốc Magnésie bismuthée, mặc dầu thiếu những đặc tính rõ rệt như đau đúng giờ, đau theo chu kỳ ….
huyết, và hiệu quả của việc ăn kiêng uống thuốc, chúng ta có thể nghĩ là Phạm Quỳnh bị bệnh loét bao tử không bộc phát (Ulcère gastro-duodénal latent) nhờ ông biết kiêng cữ và uống thuốc Magnésie bismuthée, mặc dầu thiếu những đặc tính rõ rệt như đau đúng giờ, đau theo chu kỳ ….
PHỤ CHÚ:
1) Về bệnh loét bao tử (peptic ulcer disease hay PUD) :
Y học ngày nay có nhiều khám phá kỳ thú vê căn bệnh này từ nguyên nhân đến điều trị. Chúng tôi xin kể ra đây một vài sự kiện mới mẻ đó, ngõ hầu sau đấy có thể bàn luận về bệnh trạng của Phạm Quỳnh một cách khoa học.
a) Nguyên nhân căn bản vẫn vì mức độ acide chloridrique và pepsine quá nhiều trong dạ dầy do nhiều yếu tố mà ra, trong đó phải kể mấy dữ kiện sau đây :
- Loét bao tử do uống thuốc hay ăn uống không lành mà ra. Thí dụ điển hình là
ngày xưa ai có nghĩ là thuốc chống nhức đầu thông thưòng như Aspirine lại có thể làm loét và chảy máu bao tử, nói chi đến những thuốc chống viêm thấp như Advil hay thuốc chống miễn nhiễm thuộc loại corticoides.
Ăn uống ai có cho là ăn cay ăn chua là độc địa, hút thuốc và uống rượu thường còn được ca tụng là biết hưởng đời, gây nguồn cảm hứng cho thi ca. Biết đâu là những độc chất đó rất tai hại cho bao tử và nhiêu cơ quan khác.
ngày xưa ai có nghĩ là thuốc chống nhức đầu thông thưòng như Aspirine lại có thể làm loét và chảy máu bao tử, nói chi đến những thuốc chống viêm thấp như Advil hay thuốc chống miễn nhiễm thuộc loại corticoides.
Ăn uống ai có cho là ăn cay ăn chua là độc địa, hút thuốc và uống rượu thường còn được ca tụng là biết hưởng đời, gây nguồn cảm hứng cho thi ca. Biết đâu là những độc chất đó rất tai hại cho bao tử và nhiêu cơ quan khác.
- Stres ulcer : Loét bao tử do stress, chấn thương thể chất hay tâm thần như khi bị phỏng nặng hay bị cảm xúc mạnh (choc émotionnel). Trong những trường hợp này, các triệu chứng thường ngấm ngầm vì bệnh nhân quá đau đớn (phỏng nặng chẳng hạn) hay quá lo nghĩ buồn phiền (ly dị, vỡ nợ…) không còn thấy đau bụng, ơ chua gì cả.
Đến khi bệnh đột nhiên bộc phát ra như ngất xỉu vì chảy máu đuờng tiêu hóa chẳng hạn, phải đưa vô bệnh viện khám nghiệm điều nghiên mới tìm ra căn nguyên là loét hay lũng niêm mạc bao tử !
Đến khi bệnh đột nhiên bộc phát ra như ngất xỉu vì chảy máu đuờng tiêu hóa chẳng hạn, phải đưa vô bệnh viện khám nghiệm điều nghiên mới tìm ra căn nguyên là loét hay lũng niêm mạc bao tử !
- Vi trùng gây ra loét bao tử được khám phá vào năm 1983 và đặt tên là Helicobacter pylori. Loại vi trùng này khá đăc biệt vì có thể tồn tại và nảy nở trong một môi trường khắc nghiệt với cường độ acide rất cao.
Một nét đặc thù nữa của H. pylori là xét nghiệm hơi thở của bệnh nhân (breath test) nguời ta có thể phát hiện ngay được sự hiện diên của chúng trong bao tử, căn cứ vào khả năng của chúng có thể chế tạo ra urea.
Xét nghiệm này giá rẻ và dễ làm đến độ ngày nay các bác sĩ có thể thực hiện ngay trong phòng mạch như là một xét nghiệm dùng để thanh lọc bệnh nhân (screening test)
Một nét đặc thù nữa của H. pylori là xét nghiệm hơi thở của bệnh nhân (breath test) nguời ta có thể phát hiện ngay được sự hiện diên của chúng trong bao tử, căn cứ vào khả năng của chúng có thể chế tạo ra urea.
Xét nghiệm này giá rẻ và dễ làm đến độ ngày nay các bác sĩ có thể thực hiện ngay trong phòng mạch như là một xét nghiệm dùng để thanh lọc bệnh nhân (screening test)
b) Khám nghiệm:
- Quang tuyến X thông dụng đã từ lâu, ngay cả ở Việt Nam. Chúng tôi lấy làm
lạ một nhân vật làm đến thượng thư trong triều như Phạm Quỳnh mà duờng như không bao giờ đuợc khảo nghiệm bằng phương pháp này để xác định chẩn đoán Loét Bao Tử.
lạ một nhân vật làm đến thượng thư trong triều như Phạm Quỳnh mà duờng như không bao giờ đuợc khảo nghiệm bằng phương pháp này để xác định chẩn đoán Loét Bao Tử.
- Nội soi bao tử bằng ống mềm (gastro-endoscopy) ngày nay gần như đã hoàn toàn thay thế quang tuyến X, vừa ít độc vì tránh đuợc phóng xạ, vừa chính xác lại có thể lấy dung dịch trong bao tử để phân tích (tìm trực tiếp H. pylori) hay hơn nữa làm sinh thiết để loại trừ khả năng bị ung thư bao tử.
c) Điều trị:
- Kiêng cữ dinh dưỡng vẫn là căn bản của cách điều trị bệnh loét bao tử. Ăn
xôi trên thực tế tỏ ra hữu hiệu tuy chưa ai chứng minh được là gạo nếp có chất gì khả dĩ kiềm hóa bao tử làm giảm cuờng độ acide như sữa tươi.
xôi trên thực tế tỏ ra hữu hiệu tuy chưa ai chứng minh được là gạo nếp có chất gì khả dĩ kiềm hóa bao tử làm giảm cuờng độ acide như sữa tươi.
- Ngoài những thuốc antacids làm giảm cơn đau bao tử thường dùng xưa nay
(magnésie bismuthée Phạm Quỳnh uống thường xuyên tương đuơng với Pepto-Bismol hay Milk of Magnesia ngày nay), y học hiện đại xử dụng rất nhiều thuốc mới phát minh để điều trị tận căn bệnh loét bao từ.
(magnésie bismuthée Phạm Quỳnh uống thường xuyên tương đuơng với Pepto-Bismol hay Milk of Magnesia ngày nay), y học hiện đại xử dụng rất nhiều thuốc mới phát minh để điều trị tận căn bệnh loét bao từ.
Xin kể vài thí dụ như Tagamet thuộc loại ‘’H2 receptor antagonists’’, Losec thuộc loại ‘’proton pump inhibitors’’…Đăc biệt trong trường hợp loét bao tử do H. pylori uống phối hợp 2 thứ kháng sinh (Clarithromycine + Amoxicilline chẳng hạn) với 1 loại thuốc kể trên có nhiều khả năng khỏi bệnh vĩnh viễn.
- Ngày nay điều trị bằng thuốc men hữu hiệu đến độ rất ít khi phải dùng đến
phẫu thuật cắt bỏ bao tử (gastrectomy) trừ khi bị lũng thủng. Loét bao tử sinh chảy máu bộ phận tiêu hóa (digestive hemorrhage) cũng chỉ cần chuyền máu và chuyền tĩnh mạch một loại thuốc trên đây cũng đủ thoát hiểm.
phẫu thuật cắt bỏ bao tử (gastrectomy) trừ khi bị lũng thủng. Loét bao tử sinh chảy máu bộ phận tiêu hóa (digestive hemorrhage) cũng chỉ cần chuyền máu và chuyền tĩnh mạch một loại thuốc trên đây cũng đủ thoát hiểm.
4) Về riêng bệnh trạng của Phạm Quỳnh:
Một lần nữa chúng tôi khẳng định chúng ta không thể dựa trên những tiêu chuẩn ngày nay để phán xét cách chẩn đoán điều trị của người xưa. Nếu có so sánh thì mục đích chỉ để làm sáng tỏ vài nghi vấn hay nêu lên những tiến triển của tổ chức y tế hiện đại và ngành y học tân tiến ngày nay.
a) Chẩn đoán:
- Khó có thể khẳng định Phạm Quỳnh bị bênh loét bao tử khi không có một
bằng chứng cụ thể nào có tổn thương cơ thể (organic lesion) dù bằng điện quang chứ đừng kể soi bao tử. Nhưng ông bị chứng ‘’khó tiêu do chức năng’’ (dyspepsie fonctionnelle) thì đấy là một sự kiện chắc chắn, dựa trên những triệu chứng được tường thuật lại và tính hữu hiệu của cách điều trị do chính ông kiên trì áp dụng.
bằng chứng cụ thể nào có tổn thương cơ thể (organic lesion) dù bằng điện quang chứ đừng kể soi bao tử. Nhưng ông bị chứng ‘’khó tiêu do chức năng’’ (dyspepsie fonctionnelle) thì đấy là một sự kiện chắc chắn, dựa trên những triệu chứng được tường thuật lại và tính hữu hiệu của cách điều trị do chính ông kiên trì áp dụng.
- Giai thoại ‘’ ói mửa và thổ huyết ’’ theo người nhà thì Phạm Quỳnh bị đầu độc,
song có lẽ ngộ độc thức ăn (food poisoning) thì đúng hơn. Ói mửa nhiều làm rách niêm mạc bao tử khiến chảy máu thổ huyết (Mallory-Weiss syndrome). Truờng hợp này không cần rửa ruột niêm mạc cũng tự nhiên lành trở lại.
song có lẽ ngộ độc thức ăn (food poisoning) thì đúng hơn. Ói mửa nhiều làm rách niêm mạc bao tử khiến chảy máu thổ huyết (Mallory-Weiss syndrome). Truờng hợp này không cần rửa ruột niêm mạc cũng tự nhiên lành trở lại.
Thế nhưng cũng có khả năng đây là một biến chứng bộc phát của hội chứng loét bao tử tiềm tàng từ lâu trong cơ thể, nhất là nếu thổ huyết màu đỏ tươi Trong trường hợp này, không nên rửa ruột vì có khả năng vết loét bao tử đã bị thủng (perforated ulcer) và rửa ruột có thể gây viêm nhiễm màng ruột (peritonitis) rất nguy hiểm cho tính mạng.
Dù là Mallory-Weiss syndrome hay perforated ulcer, khi thổ huyết màu đỏ tươi ngày nay không ai rửa ruột nữa mà nội soi bao tử bằng ống mềm ngay để chẩn đoán và chữa trị một lúc. Còn nếu nghi đầu độc hay ngộ độc, hành động ưu tiên là lấy đồ ói (vomitus) tìm chất độc hay vi trùng nhất là E. coli.
b) Điều trị:
Như đã trình bầy, nói riêng về cách chữa trị bệnh loét bao tử chúng ta phải nhìn nhận là y học đã tiến một bước rất xa. Chỉ cần xử dụng thuốc (uống hay chuyền tĩnh mạch) cũng đủ khỏi, khiến cho phẫu thuật trong bệnh này kể như đã được xếp vào dĩ vãng.
Chúng ta càng thán phục Phạm Quỳnh ờ một thời điểm ngành dinh dưỡng chưa có, thuốc men đơn giản mà đủ tài trí nghị lực để chế ngự đuợc căn bệnh khó tiêu mãn tính kinh niên ngõ hầu gây dựng cho sự nghiệp văn chương cũng như chính trị của mình.
I V – Cái chết của Phạm Quỳnh:
Vẫn theo lời bà Phạm Thị Hảo, năm 1945 Phạm Quỳnh đã vể hưu sống sống tại một ngôi nhà nơi bờ sông An Cựu, Huế. Ông có ý định quay lại với sự nghiệp văn chương.
Phong trào Việt Minh nổi lên, biểu tình lập chính phủ mới ồn ào tại Huế. Ngày 23 tháng 8 năm 1945 lúc 13 giờ, nhân viên chính phủ Hồ Chí Minh đến bắt Phạm Quỳnh đem đi giam tại Phủ Thừa ở Huế. Hai tháng sau, gia đình được tin ông bị bắn chết nhưng không biết ở đâu để tìm xác.
Mãi đến năm 1956, bà Hảo mới được gia đình T.T. Ngô Đình Diệm báo tin cho biết Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi và con trai là Ngô Đình Huân cùng bị bắn và chôn cùng huyệt tại Hát Phú cách Huế 20 cây số thuộc Quảng Trị.
Người chỉ huyệt chôn xác là ông lái đò năm xưa đã chở 3 nạn nhân đến nơi hành quyết. Ông lái đò kể lại ngày hôm đó (ông không nhớ rõ ngày nào năm 1945) ông phải chở 3 nạn nhân đến ven bờ sông, 2 người đã lớn tuổi và 1 thanh niên mặc quân phục Nhật Bản. Phạm Quỳnh bị bắn trước, rồi đến Ngô Đình Khôi và sau chót là Ngô Đình Huân. Xác cả ba bị vất xuống con kinh đang đào để dẫn nước vào ruộng
Ngày 28 Tết năm 1956, gia đình T.T. Diệm và gia đình bà Hảo ra Quảng Trị tìm hài cốt các nạn nhân. Khi đào lên thấy xác Ngô Đình Huân trước nhờ cái giây thắt lưng nhà binh Nhật. Rối đến hài cốt Ngô Đình Khôi bé nhỏ , sau cùng là hài cốt Phạm Quỳnh to lớn hơn.
Phạm Quỳnh nằm duới hai xương tay đưa sau gáy ôm lấy sọ bị bắn thủng với 7 phát súng lục. Gần đấy là cặp kính cận thị còn nguyên vẹn, gọng đồi mồi bị mục nát. Bà Hảo có cho chúng tôi xem đôi mắt kính và đem đi đo..
Di hài Phạm Quỳnh được đưa về an táng tại chùa Vạn Phước ở Huế.
KẾT LUẬN:
Trong số các nhà văn chuyên nghiệp có người mang bệnh kinh niên mà vẫn hăng hái làm việc vì sợ chết sớm mà không thực hiện được hay hoàn tất được những tác phẩm của mình.. Điển hình là Marcel Proust năm 50 tuồi lâm bệnh suyễn nặng. Biết không còn sống bao lâu, ông cố sức viết cho xong cuốn trường thiên tiểu thuyết ‘’Đi Tìm Lại Thời Gian Đã Mất’’ (À la Recherche du Temps Perdu) Khi được tin cả bộ sách gồm nhiều cuốn đã in xong và đã được bầy bán ở các tiệm sách, ông mới nhắm mắt trong lòng đầy an ủi mãn nguyện.
Phạm Quỳnh có một văn nghiệp phong phú và đa diện. Ông đạt được kết quả tốt đẹp như vậy nhờ ở tài năng thiên phú nhưng cũng nhờ ở năng xuất làm việc của ông. Đủ biết bệnh đau bao tử không hề cản trở công việc sáng tác của ông. Chính vì bị loét dạ dầy mà ông biết giữ gìn vệ sinh, ăn uống điều độ, không uống rượu không hút thuốc nên duy trì được khả năng suy tư, viết lách.
Là một học giả uyên thâm, Phạm Quỳnh đã kiên trì trước tác mặc dầu bệnh hoạn. Người ta đã tiếc cho văn học Việt Nam vì ông xoay hướng sang làm chính trị. Người ta thưong sót cho ông bị chết thảm vì do định mệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét