Ngày Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Phập phù GDP và ổn định vĩ mô
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Tác giả: CẢNH THÁI(VEF.VN) - Tăng trưởng GDP (Gross Domestic Product - tổng sản phẩm quốc nội) mỗi năm thường được xem là một thước đo để phán xét nền kinh tế quốc gia có đang tăng trưởng và phát triển tốt hay không. Thế nhưng chúng ta cần xem xét chi tiết xem mỗi khi GDP tăng trưởng thì quốc dân đồng bào ta được hưởng các tiến bộ gì?
Bài toán tăng trưởng GDP
GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê.
Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó các kí hiệu:
- C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế.
- I là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. Lưu ý, đừng lẫn lộn điều này với đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào thị trường chứng khoán và trái phiếu.
- G là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). Quan hệ của phần này đối với các phần còn lại của GDP được mô tả trong lý thuyết khả dụng (có thể đem đi tiêu).
- NX là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng xuất khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế khác đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế trong tính toán sản xuất) - nhập khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế trong tính toán đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế khác sản xuất).
(Nguồn: Wikipedia)
Nếu nhìn vào công thức tính GDP theo phương pháp trên, thì tổng sản phẩm quốc nội sẽ phụ thuộc vào tiêu dùng và đầu tư cá nhân cũng như hộ gia đình hàng năm (C và I); phụ thuộc vào xuất - nhập khẩu quốc gia (NX); và một thành phần quan trọng trong đó chính là tổng chi tiêu của chính phủ (G).
Do đó nếu thành phần G được gia tăng thái quá mỗi năm sẽ mang lại sự gia tăng GDP cho năm đó nhưng còn hiệu quả thực sự của phần chi tiêu này ra sao thì phải mổ xẻ thật chi tiết từng khoản tiêu dùng "đầu tư công" này thì may ra mới hiểu biết và đánh giá được.
Mặc khác, tại các quốc gia phát triển, nơi có hệ thống quản trị giám sát chi tiêu công chặt chẽ, có nền quản trị hành chánh công tiên tiến, thì tỉ lệ thất thoát trong đầu tư chi tiêu công rất thấp. Còn tại các quốc gia đang phát triển thì tỉ lệ thất thoát do tham nhũng, quản lý kém có thể chiếm tỉ lệ rất cao.
Ví dụ cho trường hợp này là các chi phí để làm một kilomet chiều dài đường ở nước ta luôn cao hơn các nước khác rất nhiều lần và chất lượng đường xá ở ta thì ai cũng thấy là rất mau hư hỏng, xuống cấp, phải làm đi làm lại rất nhiều lần, gây lãng phí lớn trong khi chi phí lương lao động ở Việt Nam rẻ hơn nhiều. Đây cũng là bài toán mà Bộ Giao Thông Vận Tải cần giải gấp hơn là giải pháp tăng thu các loại phí lưu thông phương tiện xe cá nhân!
Ví dụ khác là chỉ số ICOR ở Việt Nam trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vốn sử dụng nguồn vốn công, là rất cao, thậm chí lên tới tám đồng đầu tư cho một đồng gia tăng biên tế, trong khi các lĩnh vực khác chỉ khoảng ít hơn một nửa.
Cho tới nay, Việt Nam vẫn là nước tăng trưởng dựa vào xuất khẩu khoáng sản thô và gia công các ngành thâm lạm nhân công giá rẻ và cán cân mậu dịch nghiêng nặng về phía nhập siêu gia tăng, do là một nền kinh tế mới đang phát triển. Thành phần NX là một số trừ kéo GDP đi xuống. Một dân số trẻ đang gia tăng tiêu dùng với các sản phẩm mới của thời hội nhập và quá trình đô thị hóa mang lại, khiến GDP tăng vàmang dáng dấp của yếu tố tất yếu do gia tăng dân số cơ học tương đối cao. Đồng thời các thông tin về bội chi ngân sách cao hơn mức 3% mỗi năm, thậm chí lên tới 5 - 6% GDP mỗi năm, đang phản ánh một tiềm năng tăng trưởng GDP quá dựa dẫm vào yếu tố chi tiêu công cao.
Do vậy, chúng ta không nên quá vui mừng khi thấy GDP tăng 5% hay 7%/năm mà phải nhìn sâu vào cấu trúc tăng trưởng đang nằm ở đâu.
Giải pháp nào khả dĩ?
Đây cũng chính là cấu trúc của một nền kinh tế quốc gia hay các yếu tố ổn định vĩ mô của một nền kinh tế trong hệ thống kinh tế đang vận động ở qui mô toàn cầu và một thế giới mở, rất liên thông và phụ thuộc lẫn nhau, kể cả các định chế và các nền chính trị và kinh doanh có qui mô toàn cầu.
Một số quốc gia quá chú trọng phát triển dựa vào xuất khẩu ra nước ngoài mà không chú ý thị trường trong nước, tiêu dùng trong nước thì dẫu cho GDP có tăng trưởng thì chất lượng đời sống người dân trong nước chưa chắc đã cải thiện. Ví dụ cho trường hợp này có thể là Nhật Bản, một quốc gia xuất khẩu lớn nhưng có chất lượng hàng hóa cho thị trường trong nước Nhật thậm chí cao hơn hoặc ngang bằng hàng xuất khẩu (ai cũng biết tivi và máy móc nội địa của Nhật có chất lượng rất tốt)! Còn tại Việt Nam thì người dân chỉ được tiêu dùng các sản phẩm tốt khi các sản phẩm này bị dội hàng, trả hàng, không xuất khẩu được!
Thêm vào đó, nếu tăng trưởng GDP quá phụ thuộc vào tăng trưởng đầu tư công, thường rất kém hiệu quả, thì có khi thực chất là đang mang thêm nợ mỗi năm và chúng ta đang ăn vào tài nguyên của các thế hệ con em trong tương lai.
Các bội chi ngân sách hay chi tiêu công quá liều, thiếu hiệu quả sẽ phải đẩy gánh nặng chi trả cho năm sau, đồng thời tạo ra sự chèn lấn, xâm thực cơ hội của các đầu tư tư nhân và nước ngoài thường có hiệu quả cao khác.
Điều này còn là lý do trọng yếu gây ra tích lũy lạm phát và tỉ lệ lạm phát rất cao tại nước ta như tình hình hiện nay. Chỉ cần vài dự án chi tiêu công lớn bị thất thoát, mất mát tiền hàng ngàn tỉ VND hoặc vài tỉ USD thì đã đủ làm ảnh hưởng lớn tới % lạm phát của cả quốc gia vì cả nước sẽ phải cùng nhau gánh trả món nợ này, đồng tiền VND cũng vì đó mà mất giá thêm.
Bài toán chống lạm phát cao do chi tiêu công kém hiệu quả thường là phải mổ xẻ nguyên nhân chủ yếu từ yếu tố 'chi tiêu công" (G). Nếu cứ để mức bội chi ngân sách cho chi tiêu công 5 - 7 % thì yếu tố tăng trưởng GDP khoảng 7 - 8%/năm cũng chưa chắc có một ý nghĩa nào.
Trong một động thái khác của các nhà quản lý Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì lãi suất ngân hàng Việt Nam luôn được duy trì ở mức rất cao, trong thời gian kéo dài ít nhất từ 2008 đến nay, kể cả lãi suất huy động vốn lẫn cho vay có thể là một giải pháp rất mạo hiểm vì đang chống lạm phát bằng cách cho một liều thuốc chung cho mọi thành phần kinh tế!
Nếu lãi suất cao có tác dụng ngăn ngừa dòng vốn giá rẻ cho các đầu tư công, chi tiêu công (G) kém hiệu quả, có tác dụng kiềm chế lạm phát, thì cũng chính lãi suất cao này đang giết chết các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang tuổi ăn tuổi lớn (các yếu tố C và I)!
Lượng hàng tồn kho nguyên vật liệu gia tăng trong khi đầu ra tiêu thụ đang suy giảm dẫn tới đình đốn sản xuất kinh doanh là chuyện khó tránh khỏi. Vấn đề doanh nghiệp phải giải thể, phá sản, người lao động thất nghiệp nhiều, hay các doanh nghiệp kêu cứu và kiến nghị nhà nước có những giải pháp giúp đỡ chỉ là hệ lụy của các giải pháp thắt chặt tiền tệ theo kiểu "may một cỡ áo cho tất cả mọi người" này!
Nhanh chóng đưa lãi suất về với tình hình cung - cầu của qui luật thị trường, tránh các chính sách can thiệp duy ý chí, chạy theo lợi ích nhóm.
Tháo gỡ nút thắt lãi suất cho thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời tránh tình trạng khi hạ lãi suất cho vay, thì các ông lớn DNNN hoặc các doanh nghiệp thân hữu, nhảy vào hưởng lợi lãi suất thấp và đầu tư công, chi tiêu công trực tiếp hay gián tiếp tiếp tục tăng trở lại, còn thành phần DNVVN thì không tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ nào như các trường hợp chính sách hỗ trợ lãi suất ưu đãi 4% cho doanh nghiệp vào năm 2008-2009!
Mức độ hạ lãi suất thế nào thì cần có tầm nhìn so sánh lợi thế cạnh tranh trong chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam và các nước trong vùng như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Phillipines,..v.v. Không thể để doanh nghiệp ta có chi phí lãi suất đầu vào gấp 2 - 3 lần so với doanh nghiệp các nước, các mức thuế và chi phí cho ta rất cao, mà lại yêu cầu ta phải đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hay cạnh tranh!
Muốn ổn định kinh tế vĩ mô thì các yếu tố kinh tế vĩ mô cần phải được giữ cho một nền tảng ổn định và tạo điều kiện cơ hội để phát triển. Thành phần kinh tế nào năng động, phát triển nhanh, mạnh, phù hợp qui luật thị trường cần phải được tiếp sức, hỗ trợ. Thành phần kinh tế nào chậm phát triển, là chướng ngại và rào cản cho động lực phát triển đất nước cần phải được nhanh chóng thay đổi, hoặc mạnh dạn loại bỏ!
Tương tự như vậy, muốn tăng trưởng GDP một cách lành mạnh cần phải tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Cắt giảm bội chi ngân sách, cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả, đổi mới khu vực DNNN, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN mà hiện tại dường như đang chững lại do khái niệm "DNNN là chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam" với các lý giải chưa có tiền lệ và chưa được thuyết phục đối với cả thực tiễn và lý thuyết kinh tế học trên thế giới.
Cần làm rõ DNNN là chủ đạo trong lĩnh vực nào hay trong mọi lĩnh vực? Hạn chế và khuyến khích DNNN việc gì, lĩnh vực nào nên và không nên làm? Điều này không quá khó nếu chúng ta chịu học các bài học của các quốc gia tiên tiến đã đi trước nhiều chục năm.
Ngược lại, chúng ta sẽ phải mãi loay hoay với các chu kỳ tích lũy lạm phát 5 - 7 năm, bùng nổ lạm phát cao thuộc loại nhất thế giới, chống lạm phát bằng chính sách tiền tệ duy ý chí, bảo vệ lợi ích nhóm, nâng lãi suất rất cao để kiểm soát dòng tiền - hàng, doanh nghiệp kiệt quệ vì không phân biệt thành phần kinh tế và bị buộc phải uống cùng một liều thuốc đắng, nền kinh tế rơi vào cảnh đình lạm, doanh nghiệp giải thể, phá sản và thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội trên diện rộng.
Chúng ta cần phân biệt ai bị bệnh gì và ai phải uống thuốc gì!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét