Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

TÌNH HÌNH TRAO GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010)

Ngày Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết TÌNH HÌNH TRAO GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010)
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!



Tình hình trao giải thưởng văn học
những năm gần đây (2000 - 2010)

(Trích Báo cáo thường niên về Tình hình văn học năm 2010)
Đối tượng của báo cáo là toàn bộ diễn biến tình hình văn học nghệ thuật trong năm, bao gồm: các sự kiện đời sống văn học nghệ thuật; tình hình sáng tác; tình hình nghiên cứu phê bình; tình hình dịch thuật; chính sách quản lý văn học nghệ thuật. Do tình hình thực tế và chức năng, nhiệm vụ của Viện, báo cáo lấy văn học làm đối tượng khảo sát và nghiên cứu chính.
Cấu trúc của báo cáo gồm 3 phần: Giới thiệu chung về Báo cáo thường niên trình bày mục đích, yêu cầu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và cấu trúc của báo cáo; Nội dung triển khai ở hai cấp độ: Tổng quan tình hình văn học nghệ thuật bao quát các bình diện làm thành đối tượng của báo cáo, nhằm phác họa tương đối trọn vẹn diện mạo của văn học nghệ thuật trong năm; Báo cáo chuyên đề đi sâu vào phân tích, cắt nghĩa, lý giải các hiện tượng nổi bật của tình hình văn học nghệ thuật. Phần Kết luận khái quát những thành tựu, xu hướng chính trong sáng tác – lí luận phê bình, đề xuất những giải pháp thúc đẩy hoạt động văn học nghệ thuật phát triển
*
Báo cáo chuyên đề:
TÌNH HÌNH TRAO GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010)
Chủ nhiệm: PGS. TS. Phan Trọng Thưởng. Thực hiện: Trần Thiện Khanh 
I. Hệ thống giải thưởng và tình hình trao giải thưởng văn học
1. Giải thưởng tác động đến nhiều mặt của đời sống văn học (từ sáng tác, xuất bản đến sự bình phẩm,  nghiên cứu) và đến nhiều chủ thể (từ người sáng tác, nhà quản lí văn nghệ, nhà phê bình nghiên cứu đến độc giả phổ thông).

Đối với nhà quản lí, giải thưởng là một hình thức thể hiện sự quan tâm đối với giới cầm bút, một dịp cổ động tuyên truyền và định hướng tư tưởng, lập trường chính trị. Đối với nhà văn, giải thưởng có tác dụng cổ vũ sự sáng tạo, động viên tinh thần, định hình tên tuổi tác giả, vinh danh tác phẩm; đó là một lợi ích, một bệ phóng: ví như từ đấy tên tuổi của họ sẽ được đồng nghiệp biết đến, báo chí quan tâm, họ sẽ được nhắc đến thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đối với độc giả, nó có giá trị thông tin, chỉ dấu những gì đáng đọc; nói chung giải thưởng là một bằng chứng về giá trị. Giải thưởng văn học có thể trở thành một thiết chế đối với diễn giải văn học, nhà nghiên cứu phê bình sẽ chọn những tác phẩm đoạt giải như một đối tượng dẫn dụ thích hợp, đích đáng và tiêu biểu cho một giai đoạn văn học, một thể loại, một tác giả. Phía sau giải thưởng và ở trên giải thưởng có các nhà tài trợ, nhà tổ chức, các vị giám khảo, nhà quản lí văn hóa văn nghệ… – những thế lực luôn giành được thẩm quyền, có thể gây sức ép, chi phối hoặc thao túng trò chơi hợp thức hóa giá trị văn học. Giải thưởng có thể phản ánh sát đúng giá trị của tác phẩm, đóng góp của tác giả, ghi nhận thành tựu văn học một giai đoạn, thiết lập những chuẩn mực thẩm mỹ nhưng cũng có thể làm sai lệch giá trị thực của tác phẩm, bóp méo tác phẩm. Không phải lúc nào giải thưởng cũng thúc đẩy văn học phát triển. Giải thưởng có thể được trao nhằm đến sự hòa hợp hòa giải dân tộc lại cũng có thể khiêu khích các quan điểm chính trị và ý thức hệ hiện hành, gây ra những tranh cãi, phản ứng mạnh mẽ dai dẳng. Trao giải thưởng cho một tác phẩm còn như sự tuyên bố chiến thắng của một loại giá trị, một khuynh hướng hay kiểu loại văn bản nào đó, thậm chí người ta còn thấy nó có ý nghĩa phục hồi cho tên tuổi nào đó, một sự “tái sinh sinh mạng văn học” (chữ dùng của Đặng Hữu Mai), một cách tuyên bố sự trở về của một giá trị, hiện tượng văn chương mà vì lí do nào đó trước đấy nó đã bị xua đuổi, phê phán; đúng hơn đó là một cách điều chỉnh lại cục diện trong lịch sử văn học. Qua giải thưởng có thể thấy những thế lực đang cầm trịch làng văn
 2. Từ năm 2000 đến nay tình hình trao giải thưởng văn học ở Việt Nam có nhiều thay đổi. Sự thay đổi ấy được đánh dấu chẳng những bằng sự xuất hiện của những giải thưởng mới, cách thức hợp thức hóa giá trị mới, mà bằng cả sự suy giảm uy tín của nhiều giải thưởng lớn, chính thống và lâu đời. Mười năm qua là giai đoạn diễn ra sự xung đột về giá trị giữa nhiều hệ thống giải thưởng, giai đoạn các giải thưởng chịu sự tác động mạnh của các quan hệ phi văn học; công chúng thờ ơ trước nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng. Độc giả Việt Nam đang đối diện với một thứ văn học “làm hỏng thị hiếu đại chúng”: văn học giải thưởng. Hiện tượng phê bình “văn học giải thưởng” diễn ra phổ biến và ngày càng quyết liệt.
Có thể nhìn nhận hệ thống giải thưởng văn học nghệ thuật hiện nay ở ta theo ba nhóm: giải thưởng trong nước, hải ngoại và khu vực. Riêng đối với nhóm giải thưởng thứ nhất, lại có thể chia ra hai hình thức: giải thưởng chính sách và giải thưởng tư nhân, xã hội hóa.
Giải thưởng chính sách: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật; Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam; Giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; Giải thưởng Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; giải thưởng định kì, thường niên của các tỉnh thành phố, các Hội Văn học nghệ thuật địa phương; Giải thưởng của các cơ quan báo chí, các nhà xuất bản; giải thưởng liên ngành….
Giải thưởng tư nhân, xã hội hóa: giải thưởng của Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam; giải thưởng Lá Trầu; Giải thưởng Bách Việt; Giải thưởng Làng Chùa; Giải thưởng Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh; giải thưởng của một số website văn học…
Giải thưởng hải ngoại: Giải thưởng văn chương Khởi hành (Giải thưởng văn chương toàn sự nghiệp)
Giải thưởng khu vực: Giải thưởng văn học Sông Mê kông; Giải thưởng văn học ASEAN; Giải thưởng văn học Man Asian…
 3. Giải thưởng văn học chính sách ở ta 10 năm trở lại đây bộc lộ nhiều bất cập, nảy sinh nhiều bất ổn. Uy tín của hình thức giải thưởng này ngày càng suy giảm.
 Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật là giải thưởng cấp quốc gia, được thành lập theo Nghị định số 251 năm 1981 của Hội đồng Chính phủ, nhưng phải 10 năm sau Nhà nước mới xét trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996), và 20 năm sau mới xét trao tặng Giải thưởng Nhà nước đợt 1 (2001). Dư luận cho rằng giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước chưa mang tính nâng cao sau mỗi lần trao giải: bỏ quên nhiều tác giả xứng đáng, có nhiều đóng góp nổi bật và có ảnh hưởng trong xã hội; chất lượng giải thưởng chủ yếu vẫn là lần trao giải sau bổ sung cho những khoảng trống, những thiếu sót của lần trao giải trước, thậm chí sự bổ sung ấy cũng chưa đầy đủ, chính xác. Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước được xét trao cho một số trường hợp (gần đây) đang có nguy cơ bị thao túng, bị biến thành một sân chơi của quyền lực chính trị và kinh tế. Giới văn nghệ hiện nay cho rằng cần có một Hội đồng cố vấn, thậm chí một Viện hàn lâm quốc gia theo dõi, đánh giá các tác phẩm dự xét tặng hai giải thưởng lớn này.
Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (gọi tắt là UBTQ) được tổ chức thường niên từ năm 1993, năm sau tổ chức xét trao thưởng cho các tác phẩm xuất bản năm trước. UBTQ không thành lập và cũng khó để thành lập được một Hội đồng xét tặng thưởng chung cho 10 chuyên ngành. Giá trị vật chất kèm theo mỗi tặng thưởng của UBTQ không cao, tính cạnh tranh của tặng thưởng này cũng không lớn. Nhiều năm trở lại đây, hiệu ứng tác động xã hội của tặng thưởng này khá nhạt nhòa. Giải thưởng của UBTQ có ý nghĩa định hướng – động viên các văn nghệ sĩ ở địa phương ra sức sáng tạo theo những khuôn mẫu giá trị, những tư tưởng chính thống. Bởi thế trong các đợt xét tặng thưởng của UBTQ, tiêu chí đề tài vẫn có sức nặng phân loại và định đoạt giá trị tác phẩm.
Trước năm 2005, UBTQ mới chỉ có hình thức tặng thưởng thường niên chứ không phải là giải thưởng như báo chí (kể cả cơ quan ngôn luận của UBTQ) vẫn đưa tin, công bố và tôn vinh. Tặng thưởng của UBTQ gồm có hai hạng mục: tặng thưởng chung cho các tác giả địa phương mọi lứa tuổi, và tặng thưởng được xem xét thiên về từng quãng tuổi đời của người cầm bút. Đó là một tặng thưởng mà thoạt nhìn bề ngoài người ta có cảm giác tương tự một sự “chia phần” trong văn học nghệ thuật (phần chung và phần riêng), một kiểu cơ cấu nhằm ghi nhận hoạt động xuất bản văn học nghệ thuật trong năm là chủ yếu, chú trọng đến tính chất “truyền thống” hơn tính độc đáo mới mẻ. Tặng thưởng thường niên của UBTQ được nâng lên thành Giải thưởng văn học thường niên từ năm 2005. Cơ cấu giải thưởng của UBTQ gồm các Giải A, B, C, Khuyến khích; Giải tác giả cao tuổi và Giải tác giả trẻ. Tặng thưởng hay giải thưởng của UBTQ có quy mô lớn: xét trao giải cho hầu hết các ngành nghệ thuật, số lượng các tác phẩm được trao tặng giải trung bình từ 50 tác phẩm trở lên. Trong số các tác phẩm – công trình được xét trao giải, bao giờ văn học cũng có số lượng tác phẩm đoạt giải nhiều nhất. So với các giải thưởng, tặng thưởng khác, trong cơ cấu giải thưởng – tặng thưởng văn học của UBTQ số lượng tác phẩm thơ thường khá lớn; hầu như năm nào cũng có khoảng 10 tác phẩm thơ được trao tặng thưởng, giải thưởng. Đặt trong tương quan với các thể loại khác, giải thưởng lí luận phê bình văn học của UBTQ còn khá thấp, cả về số lượng lẫn chất lượng; giải thưởng này chủ yếu dành trao tặng cho người cao tuổi. Giải thưởng UBTQ bám sát quan điểm đúng đắn của Đảng, “tính đến cơ cấu vùng miền để động viên hoạt động sáng tạo trên cả nước”. Đó là một giải thưởng mang tính phong trào; có năm số lượng các tác giả trẻ được UBTQ tặng thưởng chưa bằng ½ so với tặng thưởng cho các tác giả cao tuổi. Giải thưởng của UBTQ có sự chi phối của nhiều yếu tố ngoài văn chương. Năm 2007, Ban Tổ chức và Hội đồng giải thưởng UBTQ (Báo cáo tổng kết, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 1- 2008) công khai thừa nhận chất lượng giải thưởng của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam yếu kém: Giải thưởng thường niên của UBTQ là “giải thưởng dành cho hội viên các Hội VHNT địa phương nên không thể đòi hỏi chất lượng giải thưởng phải như hoặc thậm chí là cao hơn giải thưởng của các Hội chuyên ngành trung ương được”. Có thể nói đây là một sự thừa nhận thất bại trong công tác thẩm định giải thưởng của một tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp có truyền thống hơn 50 năm; là sự thất bại nghiêm trọng trong nhiệm vụ định hướng sáng tác, định hướng xây dựng các giá trị văn học nghệ thuật cả nước của một tổ chức văn học chính thống.
Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam bao gồm: Giải thưởng thường niên, giải thưởng các cuộc thi do Hội Nhà văn và các cơ quan báo chí  thuộc phạm vi quản lí của Hội tổ chức. Chất lượng giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn trước hết là chất lượng thẩm định “bất biến” của Ban chấp hành, sau đó mới là của Hội đồng chuyên môn; trong đó vai trò của người làm phê bình chuyên nghiệp, nhất là những nhà phê bình có phương pháp và uy tín học thuật rất mờ nhạt. Điều này có vẻ vô lí, nhưng thực tế: cơ cấu và cách thức thẩm định giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam còn đậm tính chất hành chính, tính nhiệm kỳ (tạm gọi như vậy). Ngoài những thành phần bất biến, hằng năm BCH Hội có mời thêm một đến hai người tham gia Hội đồng giải thưởng. Song sự xuất hiện của những người đó và trong khuôn khổ giải thưởng của Hội phần nhiều chỉ để hợp thức hóa những khuôn giá trị đã được định hướng trước. Ở ta chưa có vị giám khảo nào vì để bảo vệ cái mới, bảo vệ những tác phẩm, những tác giả mà mình cho là xứng đáng được nhận giải thưởng mà bỏ ghế Hội đồng ra đi. Có lẽ chưa ở đâu như ở ta, lại sinh ra hình thức xét chọn, thẩm định như Hội Nhà văn: thành viên Hội đồng giải thưởng ở xa bỏ phiếu qua điện thoại hoặc đường bưu điện.
Tiêu chí trao giải thưởng của Hội Nhà văn rất bất ổn và mơ hồ: năm 2000 trao giải cho “những trang viết khá sành điệu”; năm 2001 đề cao loại phê bình luôn kèm theo “những kiến nghị” “những giải pháp mang tính tham mưu”, nghĩa là vinh danh “loại phê bình trực chiến”, tính chiến đấu của phê bình, đồng thời coi nhẹ mỹ cảm và phẩm chất khoa học của phê bình văn học; năm 2004 những tác phẩm đoạt giải được Hội đồng chung khảo coi là “tác phẩm hay nhưng chưa phải là tác phẩm xuất sắc”, đặc biệt trong số những “tác phẩm hay” đó có tác phẩm dù chỉ “đưa ra những nhận xét lí giải tinh tế thông minh về một bài thơ, một tập thơ, một kỉ niệm với thơ và một đời thơ” nhưng Hội Nhà văn vẫn đánh giá, xếp loại là một công trình lý luận văn học…. Phần lớn đánh giá của Hội đồng chung khảo về tác phẩm đoạt giải rất khuôn sáo, chung chung, không chỉ ra được đóng góp thực sự mới mẻ của tác giả đoạt giải, thậm chí là nhận xét chiếu lệ, “cốt cho phải đạo”. Giải thưởng của Hội được trao cho các nhà văn lão thành nhưng luôn được giải thích là văn học đang phát triển theo chiều sâu. Ban chấp hành Hội Nhà văn không chọn được tác phẩm xuất sắc, có đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của thể loại, của văn học trong từng năm để trao giải A nhưng lại giải thích là Hội muốn đặt ra một đòi hỏi cao hơn đối với công việc sáng tạo của các nhà văn. Để khắc phục tình trạng nhiều năm bỏ trống giải A, Hội Nhà văn sửa đổi quy chế giải thưởng (2005), khẳng định: “giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam là giải thưởng hàng năm trao cho các tác phẩm xuất sắc trong năm”, Hội có quyền và trách nhiệm “phát hiện và khẳng định những giá trị văn học trong đời sống văn hóa xã hội đất nước” cho nên giải thưởng thường niên của Hội có ý nghĩa khác với các cuộc thi văn chương. Giải thưởng thường niên từ 2005 sẽ không phân biệt thứ hạng A, B, C hay Nhất, Nhì, Ba nữa mà chỉ gồm giải thưởng chính thức và những tặng thưởng. Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam trên thực tế (như chúng tôi vừa mô tả) có khi bị biến thành trò chơi rải thông tin, dùng những thông tin “ổn định” để bọc những tác phẩm mới sẽ được trao giải.
Năm 2006, trong một chừng mực nào đó, là năm Hội Nhà văn Việt Nam chính thức thừa nhận và tuyên bố sự yếu kém của giải thưởng thường niên; là năm giới văn nghệ nước ta chứng kiến sự suy giảm chất lượng và uy tín nghiêm trọng của một giải thưởng vẫn được coi là danh giá. Chưa bao giờ, kể từ đầu năm 2000 đến lúc trao giải thưởng 2006, Báo cáo chung khảo của Hội lại cần phải trưng ra những chứng cứ nhằm vào hồi đáp và phủ nhận các thông tin trên phương tiện truyền thông đại chúng. Giới văn nghệ càng chưa từng được biết, trong Báo cáo tổng kết giải thưởng trước đấy, một sự công khai chi tiết về số phiếu bầu cho từng tác phẩm được trao giải. Hội đồng chung khảo Hội Nhà văn công bố: Pari 11- 8 nhận được 3 phiếu giải thường, 8 phiếu tặng thưởng; Gia đình bé mọn 4 phiếu giải thưởng, 3 phiếu tặng thưởng, Thượng Đức 3 phiếu giải thưởng, 5 phiếu tặng thưởng; Lô lô 1 phiếu giải thưởng, 5 phiếu tặng thưởng; Cánh đồng bất tận 10 phiếu giải thưởng; Thương lượng với thời gian 10 phiếu giải thưởng, 1 phiếu tặng thưởng. Như vậy:
1/ Tác phẩm bị dư luận phản đối trao giải là tác phẩm có số phiếu bầu cao nhất; và tác giả từ chối tặng thưởng lại là người sở hữu tác phẩm có số phiếu bầu giải thưởng thấp nhất;
2/Năm Hội đồng chung khảo chọn trao giải thưởng ít hơn và tự hào coi là có “chọn lọc hơn” lại là năm bị lên án mạnh mẽ, rõ rệt nhất;
3/ Năm Hội đồng chung khảo, BCH Hội cho là có những động thái tích cực, có sự đổi mới trong công tác xét giải lại là năm đánh dấu sự kiện mà họ phải lời tiếp lời, phải nói nhiều lời vãn hồi với âm hưởng tiếc nuối sâu sắc và ám ảnh hơn cả: “Pari 11-8Lô lô với những trăn trở, tìm tòi của mình đã nhận được sự ủng hộ đa số của Hội đồng chung khảo. Tiếc rằng, động thái đó, sự đổi mới đó của công tác xét giải của Hội Nhà văn đã không được các tác giả hoàn toàn chia sẻ và tiếp nhận”.
4/ Năm 2006 là năm đầu tiên Hội Nhà văn trao tặng thưởng cho một tác giả thơ nữ trẻ (31 tuổi), và thêm một lần chứng minh những tìm tòi của các tác giả trẻ vẫn được Hội đánh giá một cách dè dặt. Năm 2006 cũng là thời điểm cho thấy sự xung đột về giá trị giữa thế hệ các nhà văn có tuổi (đã tới ngưỡng “chẳng còn gì có thể gây cho họ ngạc nhiên nữa”) với những nhà thơ, nhà văn trẻ hơn rất nhiều (lại khao khát sáng tạo, đam mê tạo ra những cái mới, cái độc đáo có thể tạo ra một cảm giác thú vị, bất ngờ ngạc nhiên nào đấy, ngay cả cho chính người viết) được bộc lộ công khai trong trò chơi hợp thức hóa giá trị văn học;
5/ Năm mà một trong những ủy viên của Hội đồng chung khảo đã chính thức công nhận trong xét giải của Hội “những mối quan hệ ngoài văn chương cũng rất khó tách bạch” và một trong những tiêu chí xem xét trao giải thưởng cho tác phẩm của một tác giả là tác phẩm dự xét giải của anh ta có một bước tiến so với những tác phẩm mà anh ta công bố trước đó (một bước tiến so với các tác phẩm khác của bản thân tác giả) chứ không phải là “so với mặt bằng” chung của thể loại, so với các tác phẩm cùng xuất bản trong năm (một bước tiến so với các tác giả khác). Các tác phẩm được trao giải không phải là “xuất sắc”, không làm cho người chấm giải phải ngạc nhiên.
6/Năm 2006 đánh dấu lần đầu tiên một tác giả nữ hải ngoại, một nhà văn di dân (trước đó là Phạm Hải Anh) thể hiện công khai quan niệm người cầm bút luôn thách thức dư luận và thái độ thích sáng tạo ở vị trí ngoại biên, bên lề hơn được hợp thức hóa, được chuyển vào vị trí trung tâm và chính thống bằng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam.
7/ Năm Hội Nhà văn cho thấy Quy chế giải thưởng của Hội là “không có quy chế” gì: công bằng thì Hội Nhà văn không thể trao giải cho tập truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư vì quy chế giải thưởng của Hội khẳng định không xét và trao giải thưởng cho những tập sách có tác phẩm tái bản. Để xử lí tình huống này, Hội Nhà văn Việt Nam đã không tính đến quy chế đã đặt ra. Chủ tịch Hội đồng giải thưởng văn học 2006 cho rằng “nếu cứ máy móc căn cứ vào quy chế, chúng ta sẽ bỏ sót Cánh đồng bất tận trong cơ cấu giải thưởng. Sau khi cân nhắc kĩ, Hội đồng chung khảo quyết định bóc, tách, và chỉ trao giải thưởng cho truyện vừa Cánh đồng bất tận”.
8/Năm 2006 là năm Hội Nhà văn thừa nhận chủ trương “Khuyến khích cách tân và giữ gìn chuẩn mực truyền thống” (Báo Văn nghệ, số 49/2006) của mình: trước khi “khuyến khích cách tân”, những người chấm giải đã thương lượng cùng nhau giữ gìn truyền thống; có một sự tỏa chiết cưỡng bức nào đấy của truyền thống đối với sự cách tân văn học qua hình thức thực thi chuẩn mực và duy trì những chuẩn mực. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyễn Trí Huân – Chủ tịch Hội đồng giải thưởng gọi sự kiện Lô lô là “số phận của cái mới”.
Kể từ sự kiện Lô lô, và Thương lượng với thời gian, giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam chính thức thừa nhận sự thất bại của nó trước việc xác định các giá trị: “các giải thưởng luôn luôn thấp hơn những đòi hỏi từ đời sống”. Lô lô (trước đó là Cõi người rung chuông tận thế, và cùng năm với Lô lôPari 11- 8) đã làm xói mòn giá trị của một hệ thống giải thưởng từ bên ngoài vào, từ dưới lên; còn Thương lượng với thời gian lại làm suy giảm uy tín giải thưởng từ trong ra, từ trên xuống.
Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam như tên gọi của nó – là xét trao giải cho các tác phẩm xuất bản trong từng năm, là một sự phản ánh tình hình sáng tác trong một năm, thế nhưng “tính một năm” của nó đã không còn được giữ vững khi mà thay vì chú ý đến phương diện đồng đại Hội đồng giải thưởng đã quá coi trọng vấn đề lịch đại.
Khách quan thì không thể đo sự sáng tạo, nhất là sáng tạo văn học trong một năm. Một năm ở đây là năm xuất bản, năm tác phẩm được công bố chứ không phải một năm sáng tác. Coi giải thưởng thường niên như một thước đo sự phát triển của nền văn học, sự vận động của thể loại trong một năm là một sự nhầm lẫn khá nghiệm trọng. Quan điểm lấy mặt bằng văn học năm trước làm cơ sở đánh giá, xếp loại hoạt động văn học của năm sau cũng có điểm chưa hợp lí. Chưa hợp lí, bởi vì sáng tạo văn học là quá trình lâu dài, bền bỉ, không thể chỉ đo bằng 12 tháng (Hội Nhà văn Việt Nam tính thời gian cho tác phẩm dự xét giải theo thời hạn nộp lưu chiểu từ tháng 1 đến hết tháng 12 của năm, có Hội VHNT còn xét tác phẩm xuất bản từ tháng 6 của năm trước đến tháng 5 của năm sau…tuy nhiên đấy đều không phải là cơ sở đánh giá, đo đếm sự phát triển của văn học). Sự ra đời của một tập truyện ngắn, một tập thơ, một cuốn tiểu thuyết hoặc một tập tiểu luận phê bình, một cuốn văn học dịch là sản phẩm của cả một thời gian dài lao động câu chữ, có khi đến hàng chục năm, trên chục năm (như Thương lượng với thời gian…). Ngay các cuộc thi tính tác phẩm dự giải bằng bài, chùm bài, bằng một truyện ngắn, chùm truyện ngắn cũng vậy. Chẳng hạn, cuộc thi thơ tình do báo Văn nghệ trẻ tổ chức từ 3/2006 đến 3/2007: “Có những bài thơ đã được cất giữ từ 40 – 50 năm từ thời tuổi trẻ, có những bài thơ mang từ chiến trường trở về, nó được giữ kín nguyên vẹn trong trái tim… và bây giờ nó mong muốn được thể hiện, được giãi bày trong sự chia sẻ với mọi người” (Ban Chung khảo). Giải thưởng thường niên góp phần nhận diện văn học của cả một giai đoạn chứ không phải bó hẹp trong năm tác phẩm được trao giải. Chưa hợp lí còn bởi cái được gọi là “thành tựu của năm trước, mặt bằng của năm trước” là những cá tính khác, phong cách khác, trình độ tư duy khác, là một hiện tình xuất bản có tính thời vụ. Do đó không thể lấy cá tính, phong cách, trình độ tư duy và năng lực thẩm mỹ của người này làm thước đo chuẩn mực đối với các tác phẩm của một nhà văn kia, vả chăng những cái được gọi là“thành tựu” – “mặt bằng” ấy đều do một nhóm người hoặc cả Hội đồng xác lập, định ra theo quan điểm, quan sát của họ mà thôi; vô hình chung nếu cứ xét theo quan điểm “năm trước – năm sau” thì chỉ một vài năm liên tiếp bỏ trống giải thưởng sẽ không còn cơ sở để so sánh, đánh giá “văn học thường niên” sau này nữa; thời gian trống khuyết giải thưởng mà càng xa thì sự so sánh các tác phẩm xuất bản sau với nó càng trở nên khập khiễng, chệch choạc.
Tính chất thường niên của giải thưởng Hội Nhà văn dường như ngày càng mờ do sự khuyết vắng liên tiếp giải thưởng ở một số thể loại. Bằng chứng gần đây là giải thưởng năm 2009: có 17 tác phẩm văn học được đề cử vào chung khảo nhưng vẫn không có mặt của thơ. Hội Nhà văn Việt Nam tiếp tục để khuyết giải thưởng thơ. Nguyên nhân chính được Hội đồng thơ đưa ra là chất lượng thơ năm 2008 thấp hơn hai năm trước, không có tác phẩm nào nổi trội hẳn lên: thơ của thế hệ già chưa đủ sức nặng để trao giải thưởng và thơ của những gương mặt trẻ được đề cử chưa gây ấn tượng gì đáng kể với hội đồng. Vấn đề nảy sinh từ sự khuyết vắng này là có sự vênh nhau trong quan sát nhận định giữa các Ban văn học, các hội đồng:
1/Những năm trước, Hội đồng thơ có đề cử tác phẩm dự xét giải thưởng nhưng Hội đồng chung khảo không duyệt tác phẩm nào, năm 2009 Hội đồng thơ quyết định không đề cử tác phẩm dự chung khảo nhưng Hội đồng chung khảo lại giới thiệu đến 4 tác phẩm; sự vênh nhau này thực ra không vi phạm quy chế giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, song nó góp phần báo hiệu: việc xét giải thưởng thường niên của Hội đang vấp phải những mâu thuẫn, nghịch lí; 
2/ Nghịch lí mâu thuẫn ấy còn bộc lộ trong sự chồng chéo, lỏng lẻo về cách thức tổ chức, thẩm định giữa Hội đồng thơ và các Ban văn học đề tài, và chính từ đây có ý kiến đề nghị nên giải tán các Ban văn học đề tài để việc xét giải tập trung, chặt chẽ, và chính xác hơn, tránh tình trạng một tác phẩm không được được đề cử ở Hội đồng này lại chạy sang Ban văn học khác.
Một điều đáng nói nữa: đó là việc tùy tiện, tùy hứng coi ý kiến nào là dư luận và vai trò ảnh hưởng của nó đối với việc xét trao giải thưởng. Thực tế, cũng chỉ là ý kiến của cá nhân người đọc (mà họ là những người có quen thân với tác giả đang có tác phẩm dự xét giải thưởng…) nhưng lúc này thì được các Hội đồng xét giải coi là dư luận về tác phẩm, rồi vin dựa vào đó để gia tăng sức nặng cho trò chơi hợp thức hóa, lúc khác thì cái “dư luận” kiểu ấy lại bị các Hội đồng gạt sang một bên. Nghĩa là Hội đồng giải thưởng vừa sử dụng “dư luận” như một tiêu chí, một “bảo đảm bạc” cho quyết định chọn trao giải thưởng của họ vừa dùng nó như một cơ sở (cho nó là dư luận giả, hoặc chưa phải là dư luận thực sự) để chặn các “nước cờ” khác, những nước cờ nảy sinh trong “hiện tượng chống Hội đồng”.
Đánh giá lại công tác xét giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội cho rằng những mặt đã làm được của Hội Nhà văn bao gồm: bảo đảm tính định hướng trong quá trình xem xét, quyết định giải thưởng; Ban chấp hành có sự kiên định và quan tâm lớn đến những tác phẩm tốt viết về lịch sử hai cuộc kháng chiến và công cuộc đổi mới; các tác phẩm được trao giải thưởng không sai trái về mặt tư tưởng, chính trị; có những tác phẩm được Hội đồng sơ khảo đưa lên để “thử” Ban chấp hành nhưng BCH kiên quyết loại bỏ vì nó trái với tôn chỉ, mục đích và điều lệ của Hội; có trường hơp gai góc phức tạp BCH trao đổi với tác giả để họ tự nguyện rút khỏi danh sách đăng kí. Những hạn chế của giải thưởng Hội Nhà văn gồm: tiêu chí xét giải có lúc thiếu nhất quán; có hiện tượng hai năm liền trao cho các tác giả người Việt ở nước ngoài, được tiếng là đổi mới, dân chủ, hòa hợp dân tộc nhưng đánh mất sự quan tâm đối với những tác giả trong nước; bước sơ khảo làm chưa tốt, chưa bao quát hết tình hình văn học, còn hiện tượng đùn đẩy lên Ban chung khảo, Quy chế giải thưởng có sự lạc hậu với thời gian, để năm sau xét tác phẩm năm trước là quá dài; để lọt tác phẩm sang giải thưởng của Liên hiệp (theo Bản tin Lý luận phê bình văn học nghệ thuật số 13, tháng 6/2010).
Như vậy, giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn là giải thưởng coi trọng tính chính trị hơn tính nghệ thuật; một giải thưởng chịu nhiều sức ép, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngoài văn học, là một giải thưởng mà chất lượng của nó yếu và thiếu trách nhiệm ngay từ khâu sơ khảo. Chất lượng yếu kém của giải thưởng Hội mang tính hệ thống chứ không phải chỉ xảy ra ở một vài khâu, một vài yếu tố. Đó là một giải thưởng thiếu công bằng và khách quan: BCH Hội có những động thái khiến cho những kiểu tác giả nào đó phải “tự nguyện” xin rút khỏi danh sách đăng kí, và giải thưởng chỉ dành trao cho  nhóm “người không có những biểu hiện sai trái về tư tưởng, chính trị”. Rõ ràng đó là một giải thưởng bất cập so với tình hình sáng tác và không đúng so với tên gọi thường niên, nó đòi hỏi người đọc luôn phải nghi ngờ về tính khách quan. Ban chấp hành Hội tham gia chấm giải vừa như một khâu kiểm duyệt cuối cùng vừa như một khâu kiêm cả việc sơ khảo (vì hiện nay có hiện tượng đùn đẩy, đưa tác phẩm lên để thử BCH). Giải thưởng thưởng niên của Hội Nhà văn Việt Nam không những không phản ánh được thực tiễn văn học (vì không bao quát được tình hình văn học) mà cũng không phản ánh đúng quan điểm, cách đánh giá chung của các thành viên Hội đồng giải thưởng (có sự vênh lệch lớn về quan điểm, tư tưởng giữa các thành viên Sơ khảo và chung khảo, giữa các thành viên sơ khảo chung khảo với nhau…)
(còn nữa)
 Hà Nội, tháng 12 năm 2010
Báo cáo thường niên về Tình hình văn học năm 2010 đã được Hội đồng khoa học Viện Khoa học xã hội Việt Nam (gồm các thành viên: PGS.TS. Trần Đức Cường – Chủ tịch Hội đồng, GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, GS.TS. Trần Đăng Xuyền, PGS.TS. Phạm Thành Hưng, PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp, PGS. TS. Tôn Thảo Miên… ) tổ chức nghiệm thu, xếp loại Xuất sắc.  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét