Ngày Thứ Hai, 3 tháng 10, 2011 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Paul Krugman: “Kinh tế sẽ suy yếu, nếu tiếp tục bị rút máu”
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Paul Krugman: “Kinh tế sẽ suy yếu, nếu tiếp tục bị rút máu”
Giáo sư Paul Krugman, người đoạt giải Nobel kinh tế 2008 |
“Nhật báo Kinh tế” Đài Loan ngày 20/9 đăng lại bài của Giáo sư Paul Krugman, giảng dạy tại Trường đại học Princeston, người được giải thưởng Nô ben kinh tế năm 2008 cho rằng Kinh tế Mỹ và thế giới sẽ chậm phục hồi và phát triển nếu vẫn tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay.
Trong bài “Kinh tế sẽ suy yếu nếu tiếp tục bị rút máu” đăng trên chuyên mục “Vấn đề Kinh tế” của tờ New York Times, Giáo sư Paul Krugman viết: Trước đây trong giới y học, từng có các bác sĩ chủ trương rút bớt máu bệnh nhân để trị bệnh. Nhưng hiện nay đa số y bác sĩ đều cho rằng rút bớt máu có thể làm tác nhân gây bệnh càng hoành hành, bệnh nhân càng suy nhược và lâu hồi phục sức khỏe.
Nhưng điều bất hạnh hiện nay là hầu hết các nhà quyết sách kinh tế ở các nước lại áp dụng biện pháp rút bớt máu kinh tế. Rút bớt máu kinh tế chẳng những làm dân chúng đau khổ mà còn làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Khi kinh tế lâm vào suy thoái và khủng hoảng, những người chủ trương chính sách thắt chặt kinh tế tài chính ở Mỹ và các nước Châu Âu thắng thế, nên hơn một năm rưỡi qua, chính sách này được thực hiện rộng khắp các nơi. Lập luận của những người này là nếu các nước đều thực hiện chính sách khắc khổ, cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buộc bụng thì sẽ giảm được thâm hụt ngân sách. Từ đó, nhà nước lấy lại niềm tin trong dân chúng và kinh tế nhanh chóng phục hồi.
Vậy là cả Châu Âu thực hiện thắt chặt. Những nước kinh tế vẫn đang phát triển lành mạnh thì thắt chặt đôi chút gọi là “thắt chặt ôn hòa”, còn những nước có vấn đề lớn như Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Italia thực hiện “thít chặt”, đại cắt giảm chi tiêu.
Tại Mỹ từ năm 2009, chính phủ liên bang thực hiện biện pháp “thắt chặt ôn hòa”, nhưng chính quyền các bang lại “thít chặt”. Nhìn tổng thể, chính sách của Mỹ đại thể cũng giống như các nước Châu Âu.
Kết quả hơn một năm rưỡi qua cho thấy niềm tin chẳng thể lấy lại, mà còn tụt sâu xuống đáy vực. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng đều lo ngại, việc làm chẳng có, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao. Tăng trưởng kinh tế nói chung đều chậm lại và tỉ lệ thất nghiệp ở hai bờ Đại Tây Dương vẫn ở mức báo động nguy hiểm. Trước tình hình này, một số nhà hoạch định chính sách biện minh cho biện pháp thắt chặt nhằm mục tiêu lâu dài chứ không phải chú trọng trước mắt. Lập luận này của họ không đúng. Bởi vì, kinh tế hiện nay ngày càng suy yếu thì làm gì có tương lai cho 10 năm sau. Thực tế cho thấy tình trạng suy yếu của nền kinh tế Mỹ và Châu Âu đã bước vào năm thứ 4. Những vấn đề kinh tế ngắn hạn do hậu quả chính sách này đã làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế lâu dài các nước.
Điểm lại nền kinh tế Mỹ cho thấy ngành chế tạo thông thường mức tăng trưởng hàng năm từ 2% - 3%. Do thắt chặt tiền tệ, nên so với tháng 12/2007 đã sụt giảm tới 5%, nhiều doanh nghiệp giảm công suất và tốc độ bị suy yếu do chính sách thắt chặt đã nhanh hơn rất nhiều so với dự kiến của nhà quyết sách. Ngành chế tạo suy giảm kéo theo ngành khác cũng suy giảm theo, nhất là các ngành dịch vụ, từ đó số lượng người bổ sung vào đội quân thất nghiệp càng tăng lên. Chẳng hạn ở Mỹ, do chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách ngành giáo dục đã làm hàng trăm nghìn giáo viên mất việc. Tương lai phát triển lâu dài của nền kinh tế đất nước bị bao phủ mây đen, nợ công tăng lên. Bởi vậy, chúng ta có thể rút ra kết luận là: Chính sách này đã phản tác dụng, tăng trưởng kinh tế thấp trong tương lai cũng có nghĩa là thuế thu được cũng giảm sút, chi tiêu của nhà nước sẽ càng khó khăn. Bởi vậy, giải pháp của chúng ta là phải ra sức thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, nó chẳng những đảm bảo cho tương lai phát triển mà còn đảm bảo giải quyết vấn đề trước mắt. Nhà nước, các ngân hàng cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp mới là lối thoát cho nền kinh tế trì trệ hiện nay. Rất nhiều nhà lý luận cũng như các chủ doanh nghiệp của Mỹ và Châu Âu đều chủ trương như vậy.
Thực tế trên đã làm một số nhà quyết sách thức tỉnh. Điển hình là Tổng thống Obama vừa đưa ra phương án chính xác về giải quyết việc làm, coi đây là cái nút đầu tiên cần tháo gỡ. Tại Châu Âu, nhiều Hội doanh nghiệp, cùng một số ngân hàng đã bắt đầu kêu gọi các nhà lãnh đạo cần chuyển hướng sang quyết sách lấy tăng trưởng làm chủ đạo, sửa lại quyết sách sai lầm hiện nay. Nhưng phải nói rằng sự chuyển biến này không phải là dễ dàng, nên nhiều doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn thời gian tới và kinh tế chưa thể nhanh chóng phục hồi.
Trong bài “Kinh tế sẽ suy yếu nếu tiếp tục bị rút máu” đăng trên chuyên mục “Vấn đề Kinh tế” của tờ New York Times, Giáo sư Paul Krugman viết: Trước đây trong giới y học, từng có các bác sĩ chủ trương rút bớt máu bệnh nhân để trị bệnh. Nhưng hiện nay đa số y bác sĩ đều cho rằng rút bớt máu có thể làm tác nhân gây bệnh càng hoành hành, bệnh nhân càng suy nhược và lâu hồi phục sức khỏe.
Nhưng điều bất hạnh hiện nay là hầu hết các nhà quyết sách kinh tế ở các nước lại áp dụng biện pháp rút bớt máu kinh tế. Rút bớt máu kinh tế chẳng những làm dân chúng đau khổ mà còn làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Khi kinh tế lâm vào suy thoái và khủng hoảng, những người chủ trương chính sách thắt chặt kinh tế tài chính ở Mỹ và các nước Châu Âu thắng thế, nên hơn một năm rưỡi qua, chính sách này được thực hiện rộng khắp các nơi. Lập luận của những người này là nếu các nước đều thực hiện chính sách khắc khổ, cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buộc bụng thì sẽ giảm được thâm hụt ngân sách. Từ đó, nhà nước lấy lại niềm tin trong dân chúng và kinh tế nhanh chóng phục hồi.
Vậy là cả Châu Âu thực hiện thắt chặt. Những nước kinh tế vẫn đang phát triển lành mạnh thì thắt chặt đôi chút gọi là “thắt chặt ôn hòa”, còn những nước có vấn đề lớn như Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Italia thực hiện “thít chặt”, đại cắt giảm chi tiêu.
Tại Mỹ từ năm 2009, chính phủ liên bang thực hiện biện pháp “thắt chặt ôn hòa”, nhưng chính quyền các bang lại “thít chặt”. Nhìn tổng thể, chính sách của Mỹ đại thể cũng giống như các nước Châu Âu.
Kết quả hơn một năm rưỡi qua cho thấy niềm tin chẳng thể lấy lại, mà còn tụt sâu xuống đáy vực. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng đều lo ngại, việc làm chẳng có, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao. Tăng trưởng kinh tế nói chung đều chậm lại và tỉ lệ thất nghiệp ở hai bờ Đại Tây Dương vẫn ở mức báo động nguy hiểm. Trước tình hình này, một số nhà hoạch định chính sách biện minh cho biện pháp thắt chặt nhằm mục tiêu lâu dài chứ không phải chú trọng trước mắt. Lập luận này của họ không đúng. Bởi vì, kinh tế hiện nay ngày càng suy yếu thì làm gì có tương lai cho 10 năm sau. Thực tế cho thấy tình trạng suy yếu của nền kinh tế Mỹ và Châu Âu đã bước vào năm thứ 4. Những vấn đề kinh tế ngắn hạn do hậu quả chính sách này đã làm xói mòn cơ sở phát triển kinh tế lâu dài các nước.
Điểm lại nền kinh tế Mỹ cho thấy ngành chế tạo thông thường mức tăng trưởng hàng năm từ 2% - 3%. Do thắt chặt tiền tệ, nên so với tháng 12/2007 đã sụt giảm tới 5%, nhiều doanh nghiệp giảm công suất và tốc độ bị suy yếu do chính sách thắt chặt đã nhanh hơn rất nhiều so với dự kiến của nhà quyết sách. Ngành chế tạo suy giảm kéo theo ngành khác cũng suy giảm theo, nhất là các ngành dịch vụ, từ đó số lượng người bổ sung vào đội quân thất nghiệp càng tăng lên. Chẳng hạn ở Mỹ, do chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách ngành giáo dục đã làm hàng trăm nghìn giáo viên mất việc. Tương lai phát triển lâu dài của nền kinh tế đất nước bị bao phủ mây đen, nợ công tăng lên. Bởi vậy, chúng ta có thể rút ra kết luận là: Chính sách này đã phản tác dụng, tăng trưởng kinh tế thấp trong tương lai cũng có nghĩa là thuế thu được cũng giảm sút, chi tiêu của nhà nước sẽ càng khó khăn. Bởi vậy, giải pháp của chúng ta là phải ra sức thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, nó chẳng những đảm bảo cho tương lai phát triển mà còn đảm bảo giải quyết vấn đề trước mắt. Nhà nước, các ngân hàng cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp mới là lối thoát cho nền kinh tế trì trệ hiện nay. Rất nhiều nhà lý luận cũng như các chủ doanh nghiệp của Mỹ và Châu Âu đều chủ trương như vậy.
Thực tế trên đã làm một số nhà quyết sách thức tỉnh. Điển hình là Tổng thống Obama vừa đưa ra phương án chính xác về giải quyết việc làm, coi đây là cái nút đầu tiên cần tháo gỡ. Tại Châu Âu, nhiều Hội doanh nghiệp, cùng một số ngân hàng đã bắt đầu kêu gọi các nhà lãnh đạo cần chuyển hướng sang quyết sách lấy tăng trưởng làm chủ đạo, sửa lại quyết sách sai lầm hiện nay. Nhưng phải nói rằng sự chuyển biến này không phải là dễ dàng, nên nhiều doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn thời gian tới và kinh tế chưa thể nhanh chóng phục hồi.
Kiều Tỉnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét