Ngày Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Sự nói dối cưỡng bức?
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Theo tôi khi Lenin nói: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô-viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần" là Lenin nói tới một chế độ sẽ được xây dựng theo tinh thần đó và theo mường tưởng của ông, chứ không phải những chế độ XHCN mà các thế hệ sau này đã xây dựng.
Sự nói dối cưỡng bức?
Hạ Đình Nguyên: Bản chất của sự nói dối là biết sự thật nhưng cố ý nói khác đi một cách có ý thức, với mục đích che giấu hay tránh né sự thật. Nói khác sự thật, do tình thế cưỡng bức không thể nói sự thật, phải gượng lòng nói dối, tạm gọi là nói dối cưỡng bức.Sự nói dối cưỡng bức được lặp lại nhiều lần, rồi quen đi, nó trở thành tính, thành nết, thành tật xấu, cuối cùng là hình thành sự ngụy tín cho chính mình. Sự nói dối bấy giờ trở nên trơn tru, hồn nhiên, giống y như nói thật, mà người nghe thì thấy nó trần trụi, nó gợi lên một cảm nhận trơ trẽn.
Trẻ em nói dối thì bị quở mắng, có khi bị trừng phạt. Người lớn – với tư cách là người dân bình thường – nói dối thì hàng xóm, bạn bè tránh xa không muốn chơi, người thân thì không thể tin cậy. Người có cương vị xã hội mà nói dối thì bị nhiều người coi khinh; cương vị xã hội càng lớn, thì sự coi khinh càng nhiều, càng báo hiệu sự nguy hiểm.
Sự nói dối về dân chủ, nhân quyền ở nước ta ngày càng trở thành đề tài thời sự nóng hổi trên các diễn đàn, cả ở diễn đàn quốc tế.
Cứ mỗi lần một nhân vật cao cấp nói về dân chủ, nhân quyền là họ đã thảy một mồi lửa vào đống rơm khô, tức thì gây nên bất bình rộng khắp và không cưỡng được.
Người ta không tin rằng những con người ấy có tính nói dối bẩm sinh, cũng không thể tin rằng họ không biết sự thật, một sự thật mà người dân thường cũng hiểu được, với nhan nhản sự kiện đầy ắp trên trang báo, trang mạng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi năm và năm này qua năm khác. Chỉ có thể lý giải rằng đây là sự nói dối cưỡng bức, tức là bị bắt buộc phải nói dối.
Thử đặt vài câu hỏi:
- Nhưng ai có thể cưỡng bức họ, khi họ có quyền lực cao?
- Điều gì khiến họ chịu sự cưỡng bức dài hơi, lâu ngày đến thế?
- Và nó đã trở thành sự nói dối hồn nhiên?
1- Cách đây không lâu, bà Phó Chủ tịch nước nói: Dân chủ của Việt Nam là “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Câu nói ấy đã gây nhiều phản ứng, nhưng không phải là nói dối nếu so với giáo trình Mác-Lênin [Thực ra, so với Lenin, bà Phó Chủ tịch nước đã rất khiêm tốn, vì Lenin quả quyết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô-viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần.” (V. I. Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr. 39). Hay đơn giản là vì bà không thuộc sách vở kinh điển Lenin? Khó tin, vì bà là Giáo sư Tiến sĩ, có trình độ cao cấp về lí luận chính trị, trong khi câu nói “nổi tiếng” trên đây của Lenin đã được đưa ra giảng dạy trong nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa mấy chục năm nay, đến mức thầy giáo rất hay lấy làm đề thi cho học trò, chẳng xemở đây hay ở đây – BVN]. Còn so với thực tế, nó rất vô nghĩa, một so sánh định lượng “quá mức tình cảm”, hoặc do quán tính thuần túy… Nhưng câu nói ấy không gây nên sự phẫn nộ từ dân chúng, mà chỉ gây nên một nỗi buồn đến kinh hoàng về sự tụt hậu của trình độ “suy thoái tư tưởng” mang tính biểu trưng của tầng lớp lãnh đạo. Nếu hiểu về mặt đạo đức của sự “trung thành” hay “kiên định” với ý thức hệ, thì cái đạo đức ấy cũng gây kinh hoàng không kém. Chỉ vì cái đức tin đặt nhầm vào chỗ không phải của tôn giáo. Nó làm buồn nhân dân suốt cả năm, cũng chỉ vừa mới nguôi ngoai.
2- Nay lại đến phiên ông Chủ tịch nước!
Người ta hỏi rằng bây giờ ông có đang đói bụng không, ông trả lời một cách biện chứng rằng, vì hôm qua ông có ăn nên hôm nay không thể đói được!
Vì rằng nước ông (Việt Nam) đã từng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cả trăm năm qua, nên đương nhiên có ý chí – thậm chí rất mãnh liệt – về khát vọng dân chủ và nhân quyền. Và vì “có” khát vọng đó, nên đương nhiên dân chủ, nhân quyền phải “có” thôi! Cái lý nó thế.
Phải mượn tạm lịch sử chứ biết nói sao! Cũng như mượn tạm cái bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 2/3 thế kỷ, khi sang Mỹ tháng trước, để gởi cho ngài Obama.
Đây cũng không phải là lời nói dối thuần túy, mà chỉ là nói tránh/trớ/né thôi. Tính của ông Chủ tịch như đã từng thể hiện, ít khi nói thẳng, có lẽ không phải vì thiếu dũng khí, mà vì tính “nói khéo” có phần nổi trội. Thí dụ, đồng chí X.
Nhưng cái dẫn chứng mà ông đưa ra, mới gây nên chuyện, vì là nói dối đủ 100% . Nhiều báo trích nguyên văn, xin lặp lại:
“Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do. Do vậy, ở ngoài thì đồn đại rất nhiều nhưng để hiểu Việt Nam nhiều hơn, hiểu về đời sống chính trị của Việt Nam thì xin mời các bạn hãy đến Việt Nam. Mặc dù chúng tôi còn nghèo nhưng cũng có trên dưới 200 kênh truyền hình, 700 tờ báo và không dưới 17.000 phóng viên...” (Phát biểu của Chủ tịch nước với báo chí tại Đan Mạch, đăng trên Thanh Niên, nhưng bị rút xuống. Xin xem ở đây – BVN)
Biến đổi hàng giờ vì phải liên tiếp thay hình đổi dạng, tự chết đi để tìm cách sống dậy. Mà dù có sự phát triển, thì không phải là sự vui mừng, mà là nỗi lo ngay ngáy của phía nhà nước.Rất tự do lại như một cơn gió độc quất vào mặt các blogger dù họ đang ở trong nhà tù kín gió. Cái đội ngũ hùng hậu về người và phương tiện: 17.000 phóng viên, 700 tờ báo, 200 kênh truyền hình..., đúng là đất nước còn nghèo (ông Chủ tịch khẳng định), nhưng rất thích chơi sang! Chừng ấy là chưa tính tới bao nhiêu cái loa phường, mỗi phường một loa thôi, trên khắp đất nước, cũng quá đủ để trấn áp hệ thần kinh người dân. Lực lượng hùng hậu mà Chủ tịch dẫn chứng, có số người đông như bộ máy an ninh cảnh sát, có phương tiện truyền thông dồi dào vô địch, được hiểu một cách hùng hồn chỉ là một bộ máy đàn áp. 17.000 phóng viên ư? Trong đó biết bao nhiêu tiếng thở dài? Bao nhiêu tiếng hò reo cùng với kèn trống? Với một nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, chỉ một bài báo, trong chỉ một ngày là bị đuổi việc. Nhanh và nhạy vô cùng. Nhưng còn bao nhiêu sự kiện, sự cố diễn ra hằng ngày, cụ thể, ngoài sự phản ảnh của truyền thông và báo chí?
Nói không đúng sự thật như trên, kể ra ông Chủ tịch cũng đã có dũng cảm. Nhưng dũng cảm nhất, và khách khí nữa, là “Mời các bạn đến Việt Nam” thì… biết liền! Có lẽ, không cần đến Việt Nam, họ cũng có khả năng biết liền. Ông Chủ tịch còn hồn nhiên phản kích: “Ở ngoài [nước ngoài] thì đồn đại rất nhiều, nhưng…”, có nghĩa là báo chí nước ngoài nói dối (đồn đại = thổi phồng, nói càn, ít xít ra nhiều).
Ông Chủ tịch và các ông lãnh đạo khác không thể không biết chính những điều mà các ông đã và đang làm, về dân chủ và nhân quyền bao nhiêu năm qua, ở cái xứ sở khốn khổ này. Một đất nước tràn trề tham nhũng mà lại có dân chủ và nhân quyền được sao, lạ thật!
Thế nhưng không thể nói thật.
Là “nói dối cưỡng bức” hay đã trở thành ngụy tín?
Hầu hết trong bộ máy nhà nước, từ cao đến thấp, đều như thế!
Nghĩa là cùng trong tình thế cưỡng bức.
Và sự ngụy tín đã trở nên toàn diện, bao trùm.
Nhưng ai có thể cưỡng bức họ?
Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật. Vì cơ chế đó được đặt trên một tiền đề không có thật nốt: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Quả là bi hài! Bị kẹp chặt và bẹp dí như con mắm, mà còn làm chủ được sao? Thế là sự nói dối “dân làm chủ” cứ chễm chệ trên ngai, như lời hô vạn tuế trên môi các quan chức suốt gần 4 thập niên qua, cho cái ông vua “làm chủ” khốn khổ ấy, kể từ khi đất nước thống nhất. Từ đó, mọi sự nói dối và suy đồi các loại phát triển, lan rộng và nhanh như cỏ mọc, thành “tập thể nói dối cưỡng bức”, hùng hậu ở mọi lãnh vực: dân chủ, nhân quyền, kinh tế, văn hóa xã hội, cả sự nói dối về đạo đức, tư tưởng. Sự nói dối còn di căn sang một bộ phận thanh niên có quan hệ gần gũi với bộ máy cầm quyền, trở thành dạng nói dối ngu muội hồn nhiên.
Một bộ máy có thể kẹp chặt người dân như thế, thì cán bộ dù cao đến đâu, cũng không thoát khỏi thân phận chung của người dân, dù là lãnh đạo của bộ máy. Vì cái thân phận lâu dài của anh ta vẫn là người dân, trước khi làm quan và sau khi làm quan. Những người về hưu có thể rất cay đắng với một quãng đời nói dối hồn nhiên hoặc nói dối cưỡng bức của mình, khi thoát được khỏi tình trạng ngụy tín!
Nhưng vì sao họ có thể chịu đựng lâu dài, bền bỉ đến thế?
Câu trả lời thì dễ, nhưng vấn đề lại hết sức gay go.
Đó là quá trình hy sinh và gắn bó với nhiều ràng buộc của quyền và lợi. Sự hy sinh của những ai đó có thể chưa nhiều lắm, mà sự gắn bó thì nhiều hơn, nhất là những cái chức đã mua bằng tiền, hoặc bằng sự thân quen nâng đỡ. Cách vận hành của lối sống này lại được sự bồi dưỡng tích cực của triết học Mác-Lênin: “Vật chất quyết định ý thức”. Theo đà giục giã của vật chất cứ thế tiến lên, tiến lên nữa… Riêng những người đã chết, và những Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì nằm lại thôi. Còn người dân, họ đang “làm chủ” theo thân phận “con mắm”.
Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình!
Vì thế mà không thể nói thật.
Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…
Dân chủ, nhân quyền tuy là những danh từ chung, nhưng không phải là trừu tượng. Nó có nội dung được thể hiện bằng những thiết chế cụ thể, có hệ thống, được thừa nhận trong một Hiến pháp đúng nghĩa, trong hệ thống luật pháp minh bạch. Vì thế không thể muốn nói gì thì nói. Các cách nói dối cần được thẩm định, phê phán bằng truyền thông tự do để nhanh chóng chấm dứt nó.
3- Lại không công bằng nếu không đề cập đến một dạng “nói dối đạo đức” (là nói dối về phương diện đạo đức) đang ồn ào diễn ra ở vị lãnh đạo cấp cao.
“Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân, chứ không phải chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường.” (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Văn nghệ không chỉ là nơi cuộc sống hiện hình)
Thật hiếm có một vị chính khách nào trên thế giới, như Tổng thống, Thủ tướng, hay nguyên thủ quốc gia, dám cao giọng dạy cho ai đó với kiểu cách của một thầy giáo, hay của bậc cha mẹ. Nếu vị ấy có học hàm học vị, được tín nhiệm mời vào dạy ở một trường học, thì cũng chỉ được phép dạy chuyên môn của mình có và dạy cho sinh viên của mình. Chính khách khi tham gia các hội thảo khoa học cũng chỉ phát biểu quan điểm của cá nhân. Ai dạy ai trong thời đại này trở nên vô cùng khó. Sự khiêm tốn đích thực đã là một trong những phẩm giá quan trọng cho mỗi nhân cách.
Chỉ riêng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, thì Tổng Bí thư Đảng Cộng sản luôn khả năng dạy tất cả mọi người, mọi lãnh vực, nếu muốn. Lênin đã làm như thế, và mọi ông Tổng Bí thư đều có thể làm như thế. Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa mới lên lớp về đạo đức trong sáng tạo văn học nghệ thuật cho những người làm văn học nghệ thuật trong nước, cấp trung ương. Hãy lắng nghe:
“Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của nhân dân.”
Đoạn văn này khá văn hoa bay bổng. Cái “khát vọng lớn lao và lý tưởng cao cả” khó ai dạy cho ai được. Ông Tổng Bí thư muốn áp đặt cái khát vọng nào là lớn lao, lý tưởng nào là cao cả cho mọi người? Ông bổ sung làm rõ thêm cho mệnh đề rất ư lửng lơ trên, là: “hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc”. Sự hòa nhịp đập trái tim của hai nam nữ yêu nhau cũng đã khó, huống là! Nhà lý luận “nổi tiếng” về chủ nghĩa duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin, bỗng trở thành duy tâm đến độ cao.
Muốn nói đến sự thống nhất ý chí của toàn dân hướng đến cùng một mục tiêu chung, mà không nói đến cơ chế dân chủ, công bằng được sao?!
Và ông yêu cầu “lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân”. Nghe thế nào ấy! Vừa sáo rỗng, vừa có vẻ lấy lòng nhân dân, lại vừa như châm biếm mỉa mai chứ không phải là ngợi ca. Đau khổ, chết chóc của những “con mắm” chẳng bao giờ là vĩ đại cả. Thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân cần học hỏi, phải chăng là rút ra từ tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn, hay những phát súng đòi công lý của Đặng Ngọc Viết?
Nhưng không thể trách, vì ông đã sinh ra từ điều 4 Hiến pháp thiêng liêng có tính mặc khải, đã men theo con đường Đảng mà “thành đạt”! Vị trí đó cho ông mọi quyền, kể cả quyền mắng mỏ bất cứ ai ông muốn. Ông đã từng mắng những người tham gia góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp là “suy thoái” và toan tính xử lý. Nay ông mắng các nhà làm văn học nghệ thuật (của ông): “không chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”.
Sao ông Tổng Bí thư có thể nói vậy được? Sao nói đội ngũ ấy “gặm nhấm”? Vì sự gặm nhấm là chỉ của loài gặm nhấm. Cái đội ngũ cấp Trung ương ấy đã “lấy tiểu xảo thay cho tài năng”. Thật thế sao? Lại “nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp”. Trong bối cảnh nào mà cái xấu phát sinh như thế? Thật ra, con người ai chẳng đi ra từ chỗ “chật hẹp”, và nhìn đời qua chỗ “chật hẹp” ấy? Và từ đó trở nên bao la, có vợ chồng, có con cái, có anh em, có đồng bào, có cái toilet, có mái nhà, có miếng ruộng vườn để cày xới… Thế mà tất cả trở thành khó khăn, trở thành bấp bênh, vì có thể bị cưỡng đoạt bởi những người nhân danh sự “lớn lao”, sự “cao cả”!
Ông băm vằm tiếp: “[…] thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”.
Thế là, văn nghệ không phải là thú vui, không phải là để giải trí, cũng không phải là cuộc chơi. Thật thế sao? Tất cả chỉ là “đam mê tầm thường”? Phải chăng, trong cái khát vọng lớn lao, trong cái lý tưởng cao cả, trong cái lý luận mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã muốn giáo dục, “không có bóng dáng con người” như lời của GS Trần Đức Thảo đã nói cách đây khá lâu?
Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, và đại diện lãnh đạo các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành của Trung ương đã ra nông nổi nào và xứng đáng chăng để nhận những lời giáo huấn như băm như vằm nói trên? “Xứng đáng cao”, “xứng đáng”, và “xứng đáng thấp”, như ba cái bậc thang tín nhiệm mà Quốc hội đã sáng tạo? Nó đang xoáy vào tim gan của những người có lòng tự trọng, dù người có làm văn học nghệ thuật hay không.
Kẻ ngoại đạo này nghĩ rằng, trong số thành phần kể trên, hẳn là có một số thuộc loài gặm nhấm (như sự ám chỉ của Tổng Bí thư), thì xin hãy tiếp tục kiên trì “gặm nhấm” những lời giáo huấn của thầy Tổng Bí thư, và cố thoát ra khỏi cái góc nhìn “chật hẹp” mà thầy đã công phu chỉ ra.
Riêng bài nói chuyện của Tổng Bí thư, đã là “sự sáng tạo văn học nghệ thuật với tài năng, tâm hồn, nhân cách và bản lãnh” của ngài. Tôi trộm nghĩ thế!
25-9-2013Hạ Đình Nguyên
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét