Ngày Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Những người Đông dương trên đất Pháp
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!
Những người Đông dương trên đất Pháp
Hồn ở đâu bây giờ ?
Ruộng lúa ở Camargue. Ảnh Cỏ May
Cụ Nguyễn văn Thành, Cỏ May có nhắc trong bài trước, là một trong 20 000 người bị nhà cầm quyền thực dân Pháp ở Việt Nam cưỡng bức vội vàng qua Pháp để lao động không lương phục vụ cho Nhà nước Pháp. Những người này bị Nhà nước Pháp liên tục từ trước Đệ II Thế chiến tới nay quên lãng một cách vô cùng tự nhiện. Trong gần đây có nhà văn, nhà báo, nhà làm phim, sinh viên làm Tiểu luận Cao học và Luận án Tiến sĩ, lần lược nhắc lại và đặt vấn đề trách nhiệm với Nhà nước Pháp . Nhiều buổi hội thảo, thuyết trình được tổ chức tại những địa điểm nơi những người Đông dương này đã ở qua, làm việc trước kia, để vực dậy trí nhớ của những người trách nhiệm. Và đồng thời cũng nhằm giúp những thế hệ sau này có những thông tin về thân nhân của họ.
“Công Binh, đêm dông dương dài ” (Công Binh, la longue nuit indochinoise) là một cuốn phim do Lâm Lê thực hiện để nhắc lại những người lính thợ đông dương trong đó có nguời cha của tác giả và một số ít hiện diện như những nhơn chứng trong phim hãy còn sống sót ở Việt Nam và ở Pháp ngày nay.
Trước khi Đệ II Thế chiến khai diễn, Nhà nước thực dân Pháp ban hành lệnh cưỡng bách trưng dụng người dân xứ thuộc địa đưa về chánh quốc làm việc như công nhân không chuyên môn (ONS = Ouvrier Non Spécialisé) và không lương tại các xưởng kỹ nghệ chiến tranh. Việt Nam bị nhà cầm quyền thực dân bắt 20 000 thanh niên đưa khẩn cấp qua Pháp để thay thế lính pháp phải đi đánh giặc.
Sau khi Pháp thất trận, những người Việt Nam này bị nhận lầm là lính nên bị quân Đức và những người Pháp hợp tác với Đức sử dụng. Họ phải sống lưu đày cơ cực dưới thời Đức chiếm đóng. Một số người này là những người đầu tiên trồng lúa theo kiểu Việt Nam ở Camargue.
Ở Pháp, họ bị nhà cầm quyền pháp bắt làm nô lệ. Về xứ, họ bị Hà Nội kết tội là những người phản quốc.
45 ngày tới Pháp
Nhắc lại chính xác ngày 29 tháng 8 năm 1939, Công Báo Đông Dương phổ biến một Nghị định theo đó nhà cầm quyền thực dân pháp tuyển dụng cưỡng bách 20 000 thanh niên Việt Nam đưa qua Pháp, không phải đi lính, mà làm những công việc không chuyên môn.
Mỗi gia đình nào trong làng có 2 con trai tuổi từ 18 tới 45, phải nạp một người nhưng tránh cho con trai trưởng để ở nhà lo việc thờ cúng gia tiên. Nếu nhà nào có con mà không đưa con đi thì người cha phải chịu ở tù. Chánh quyền thuộc địa được lệnh phải kết thúc chiến dịch tuyển người trong vòng 6 tháng. Có nhiều người bị bắt đi không kịp từ giã vợ con.
Nói là 20 000, nhưng con số tới Pháp là 19 550 người trong đó có 6900 người ở Bắc, 10 850 người ở Trung, tức xứ Annam, và 1800 người ở xứ Nam kỳ thuộc địa.
Họ xuống tàu ở Hải Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn. Và cuộc hải hành của họ thường phải mất 45 ngày. Dĩ nhiên họ bị nhốt trong hầm chở hàng hóa, bị cấm lên boong vì nơi đây có người pháp và sĩ quan. Họ ngủ cứ 5/6 người trên một sạp gỗ, không nệm, chiều dài 1, 50m. Vì hầm tàu là nơi chở hàng nên không được trang bị các điều kiện vệsinh nên mùi hôi bốc lên nồng nặc. Ăn uống, cứ 10 người nhận 1 cái thau thức ăn chia nhau.
Tới Marseille, 75 Đội được đưa tới Baumettes thuộc Quận IX của Marseille ngày nay ở tạm chờ phân phối đi các nơi làm việc. Lúc đó chỗ ở Baumettes vừa mới xây xong, sau này là khám đường của Marseille còn tồn tại tới ngày nay. Ở nhiều trại, công nhân ăn không đủ no vì bị tham nhũng ở khâu cung cấp lương thực. Mỗi người phải tự xoay sở lấy giải quyết cái đói. Mèo, chó lúc đó quí giá vô cùng, ngon hơn thỏ và cừu, cho nên trong phạm vi vài cây số chung quanh, người ta không còn nghe được tiếng mèo ngao, tiếng chó sủa ma nữa.
Nhà nước bảo hộ hay nhà tù?
Tháng 6/1940, Pháp thua trận. Vài ngàn trong số công nhân này được hồi hương. Nhưng từ năm 1941, đường biển Âu châu và Viễn đông bị cắt bởi Hải quân Anh, 14 000 công nhân này bị kẹt lại ở Pháp. Bộ Lao động Chánh phủ quyết định đem bán những công nhân này cho các xí nghiệp tư như xưởng dệt, nhà máy luyện thép, xưởng cưa, nông trường, hay cho chánh quyền địa phương để đào cống rãnh, lấp đầm lầy, đốn cây, … với giá nhân công rẻ mạt.
Khi mướn công nhân, người chủ chỉ làm giao kèo với Bộ Lao động, đúng hơn, với Sở nhân công bản xứ (M.O.I = Service de la Main d’Oeuvre Indigène)), trả tiền làm việc thẳng cho M.O.I, tức Cai thầu. Suốt nhiều năm dài, Cai thầu thực dân thu tiền bán nhân công nhưng lại không trả lại cho công nhân một đồng xu lớn, đồng xu nhỏ nào hết. Họ làm việc không lương, chỉ nhận được một số tiền phụ cấp bằng 1/10 lương của công nhân Pháp lúc đó. Họ còn bị bữa đói, bữa no, ngược đãi, chỗ ở tồi tệ, không nước nóng, không sưởi vào mùa lạnh, không được đi lại tự do.
Những công nhân ở lại, không về xứ được do chiến tranh, tập trung ở Miền nam Pháp, trong những Trại lớn ở rải rác từ Marseille qua Bordeaux .
Nước Pháp được Đồng minh giải phóng khỏi sự đô hộ của Đức quốc xã nhưng tình trạng của những công nhân lao động cưỡng bách Việt Nam lại không thay đổi.
Những đợt hồi hương đầu tiên chỉ được tổ chức vào năm 1948. Và những công nhân sau cùng về xứ năm 1952, sau 12 năm bị cưỡng bách biệt xứ. Có khoảng một ngàn người lấy quyết định ở lại Pháp sanh sống.
Từ đó, 20 000 công nhân Việt Nam bị cưỡng bách tới Pháp trước Thế chiến để giúp làm chiến tranh giài phóng Nhà nước Bảo hộ tại bổn quốc hoàn toàn bị lịch sử Pháp bỏ quên. Như những người này chưa bao giờ hiện hữu trên đất Pháp. Cũng may, năm 1986, một nữ sinh viên ở Đại học Nanterre làm một Tiểu luận Cao học về thân phận của những người bị bỏ quên này. Qua năm 1996, Ông Lê Hữu Thọ, nguyên Giám thị-Thông ngôn (Surveillant-Interprète) của Đội 35 cho Nhà L’Harmattan, Paris V, ấn hành những kỷ niệm của ông dưới nhan đề “Lộ trình của một quan lại nhỏ ” (Itinéraire d’un petit mandarin).
Tiếp theo, nhà báo Pierre Daum, như bị thu hút mãnh liệt bởi hoàn cảnh nghiệt ngã của những người nghèo khổ ở tận Đông dương bị Nhà nước Pháp bỏ quên, bèn lao mình vào cuộc tìm tòi thông tin, nhân chứng suốt bốn nămliền. Sau cùng, ông cho ra đời được “Những người di cư bị cưỡng bách, những người lao động Đông Dương trên đất Pháp (1939-1952) “, do nhà Actes-Sud xuất bản . Tác phẩm của ông đưa ra ánh sáng trang sử thuộc địa đen tối của Pháp.
Với sự khuyến khích thêm của Ông Lê Hữu Thọ, Ông Pierre Daum vận động Thị trưởng Thành phô Arles tổ chức triển lãm và nói chuyện về những người phục vụ nước Pháp bị Chánh phủ Pháp bỏ quên suốt 70 năm dài.
Chọn Thành phố Arles để khơi dậy ký ức của nước Pháp vì chính nơi đây, 70 năm trước, có 1500 ngưòi Việt Nam được gởi tới làm ruộng muồi và ruộng lúa. Họ đã thành công ngoài sự hi vọng với cách làm ruộng như ở Việt Nam . Bởi họ vốn gốc nông dân bỗng bị bốc khỏi đồng ruộng đem qua đây. Ruộng lúa Camargue do họ khởi công cày cấy từ những năm 1941- 1945 đã đem lại cho vùng này sự phồn thịnh. Ngày nay, không riêng người dân Camargue ăn gạo cấy gặt từ đây, mà trên thị trường xứ Pháp, gạo Camargue cũng được bày bán rộng rãi. Với nhiều thứ như gạo lứt, gạo trắng, gạo hột tròn, gạo hột dài, gạo thơm, gạo đỏ, gạo đen, … Cỏ May từ lâu nay ăn gạo Camargue, gạo lứt, gạo đỏ, thay thế gạo trắng Thái Lan.
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Lần đầu tiên, Thành phố Arles, nhờ sự vận động của nhà báo Pierre Daum, hồi tháng 12 năm 2009, tổ chức lễ tưởng nhớ công ơn những người Việt Nam đã khó nhọc giai đọan đầu cày cấy ruộng lúa Camargue nhờ đó mà ngày nay có gạo Camargue. Mà đó lại là điều mọi người không ai biết tới chớ đừng nói nhắc tới.
Trong buổi lễ, trước sự hiện diện đông đảo của dân chúng địa phương và, đặc biệt hơn hết, của mươi tác nhân và chứng nhân, tức trong số 20 000 người trước kia nay còn sống sót được, ông Thị trưởng đã chánh thức thừa nhận nước Cộng Hòa Pháp đã có trang sử đen tối đó trong thời làm thực dân.
Gạo Camargue
Trước chiến tranh, năm 1938, Pháp nhập cảng mỗi năm 600 000 tấn gạo từ Á châu mà hết 80% của Việt Nam. Pháp thất trận, Đế quốc thực dân cũng bị sụp đổ theo luôn. Chánh phủ Vichy , năm 1941, có sáng kiến sử dụng nhân công Việt Nam những người gốc nông dân chuyên nghiệp để thử trồng lúa ở vùng ngập nước Camargue không khác những điều kiện nước, đất như ở Việt Nam .Thế là 225 công nhân không chuyên môn Việt Nam gốc nông dân được gởi tới Camargue. Lúa giống, mua ở Ý.
Những người Việt Nam này bắt tay làm ruộng theo cách thức đã từng làm ở Việt Nam từ bao nhiêu đời. Năm 1942, vụ gặt đầu tiên trúng mùa: 182 tấn lúa thu hoạch trên 50 mẫu đất canh tác. Qua năm sau, thu được 600 tấn lúa trên 230 mẫu đất. Năm 1944, 2200 tấn lúa thu được trên 800 mẫu đất.
Đà sản xuất này kéo dài tới năm 1960. Lúc bấy giờ, người ta làm được 3 mùa. Gạo đạt phẩm chất tuyệt hảo.
Ruộng lúa ở Camargue. Ảnh Cỏ Ma
Người dân Camargue còn nhớ dưới thời bị Đức chiếm đóng, gạo là vàng. 1kg gạo đổi được 50kg xi-măng nên có nhiều người dân Camargue đã trở thành điền chủ giàu nhờ vài mẫu ruộng.
Và một sự khám phá kỳ thú về gạo Camargue do nông dân Việt Nam , những người bị lưu đày biệt xứ, khai sanh ra tại đây. Một hôm, nhà báo Pierre Daum vào xem nhà máy chà gạo Lustucru ở Arles nhìn thấy những bức hình nông dân Việt Nam, ông bèn tìm hiểu tới và đã khám phá ra lịch sử gạo Camargue ngày nay đang lưu hành trên thị trường.
Trong buổi lễ tưởng niệm và tri ơn những công nhân Việt Nam tới đây trước thế chiến và ở lại đây, đem lại cho Camargue, một vùng ruộng lúa phí nhiêu ngày nay, ông Thị trưởng Arles tuyên bố sẽ làm bia tưởng niệm những người bạn cao quí Việt Nam và đặt tấm bia ấy tại một địa điểm xứng đáng trong Thành phố,
Nguyễn thị Cỏ May
http://www.danchimviet.info/archives/79642/nhung-nguoi-dong-duong-tren-dat-phap-hon-o-dau-bay-gio/2013/09
Cuốn "Nhân công Đông Dương, lao động nhập cư cưỡng bức" (1939-1952) của tác giả Pierre Daum mới ra mắt đã hé mở cho độc giả Pháp một bi kịch được giấu kín cách đây 70 năm về những người thanh niên Việt Nam bị ép buộc và trưng dụng sang “mẫu quốc” làm lính thợ phục vụ cho nước Pháp trong Thế chiến II. Vài người trong số đó sau này trở thành nghệ sĩ nổi tiếng như họa sĩ Lê Bá Đảng, nhà điện ảnh Phạm Văn Nhân, (suýt nữa trong danh sách ấy có tên nhà văn Tô Hoài, nhưng ông dừng lại ở bến cảng mà không lên đường rời xứ sở)...
Gần 2 vạn nông dân bỗng chốc trở thành lính…
Nước Pháp thời chiến thiếu nhân công trầm trọng, thế nên một sắc lệnh đã được Bộ Chiến tranh ban ra ngày 2/5/1939 nhằm trưng dụng nhân công thuộc địa. Sắc lệnh ghi rõ các nhân công này phải là những người tự nguyện, được trả lương, đối đãi đúng quy định và sẽ hồi hương khi chiến tranh kết thúc. Chính quyền thuộc địa Đông Dương đã trưng dụng khẩn cấp 19.550 người, trong số đó 96% là nông dân mù chữ (chỉ có 4% là tình nguyện vì biết tiếng Pháp).
Biện pháp ép tuyển là gia đình nào có hai con trai từ 18 tuổi trở lên thì phải “giao nộp” một người nếu không người cha sẽ phải đi tù. Bất đắc dĩ, từ nông dân vượt ra khỏi biên giới, họ bỗng trở thành công nhân.
Họ bị cắt cử làm nhiều loại công việc, từ sản xuất cánh máy bay, thuốc súng, phụ đóng tàu đến việc đồng áng, làm rừng... dưới sự cai trị và thái độ miệt thị của các cựu quân nhân thuộc địa. Trên công trường, họ phải làm những công việc nặng nhọc, không được trang bị đồ bảo hộ tối thiểu. Đến vụ mùa, có ngày họ làm việc tới 15 tiếng, công nhân Pháp mệt thì được nghỉ còn họ bị bắt phải tiếp tục làm.
Những ngày trời Đông tờ mờ sáng, một đoàn người nối đuôi nhau lặng lẽ đi bộ 5 cây số đến nơi làm việc. Về đến lán trại, sinh hoạt thường nhật của họ cũng hết sức tạm bợ. Ăn đói, mặc rét khiến họ có khi sa vào tình cảnh bi hài thê thảm.
Ông Lê Hữu Thọ (cựu thông ngôn) kể lại chuyện một nhóm lính thợ vì đói quá đã nghĩ ra kế dụ con chó nhà dân để nó quen hơi và không sủa bằng cách ném cho nó chút gì ăn được rút từ khẩu phần ít ỏi của họ. Sau mấy ngày “thuần dưỡng” con chó dữ, một sớm mai, họ đột nhập nhà, cho lợn ngửi thuốc mê rồi “cõng” đi hai chú lợn sữa ra ngay con suối gần đó và thổi lửa để nướng. Không dè khói bốc lên, chủ nhà sinh nghi đi báo cảnh sát, thế là cả hội chưa kịp thưởng thức miếng ngon đã bị tống giam!
Và giúp hồi sinh nghề trồng lúa nước Pháp
Chiến tranh xảy ra, giao thương của Pháp với Đông Dương bị ngưng trệ, gạo nuôi công nhân không đủ. Nha Nhân công bản xứ (MOI) nảy ra sáng kiến sử dụng lính thợ vốn là những nông dân tham gia vào việc trồng lúa mì. Khí hậu vùng Camargue vốn dĩ khắc nghiệt, mưa và bùn lầy vào mùa Đông, nắng nóng và ruồi muỗi hoành hành từ Hạ sang Thu. Công việc đồng áng cực nhọc đến nỗi nông dân Pháp từ chối không làm và nếu không có người Việt Nam thì cánh đồng gần như bị bỏ mặc. Từ khi có bàn tay những nông dân Việt Nam, sản lượng gạo tăng lên đáng kể và dân sản xuất lúa trong vùng làm giàu nhờ thứ “vàng trắng” này cho đến tận những năm 1960. Nhưng từ đó tới nay, không một nơi nào trong cả vùng Đông Nam nước Pháp người ta nhớ đến công lao của nông dân Việt Nam dù chỉ qua một bài diễn văn hay tấm bia tưởng niệm...
Trở lại giữa những năm 1940, cuộc sống của lính thợ cũng dần cải thiện sau ngày nước Pháp được giải phóng (1944). Đời sống tinh thần của lính thợ biến chuyển rõ rệt, họ không còn bị coi là dân thuộc địa và chịu sự miệt thị nữa.
Trong các trại, đám sĩ quan không còn hống hách như trước và bắt đầu dè chừng thái độ của lính thợ. Lính thợ tiến hành bầu cử để chọn ra người lãnh đạo mới trong trại vì ở nhiều nơi, ban chỉ huy vấy bỏ trách nhiệm quản lý. Do tiếp xúc với phong trào giải phóng, đảng cánh tả, công đoàn Pháp, cộng thêm những thông tin về tình hình chính trị và tranh đấu đòi độc lập tự do ở Việt Nam, lính thợ được giác ngộ chính trị. Họ hoạt động, tranh đấu rất quy củ trên toàn nước Pháp để đòi quyền độc lập cho Việt Nam. Trong trại, họ dạy chữ cho nhau, làm báo, sinh hoạt chính trị...
Tuy bất đồng chính kiến về tư tưởng chính trị và có lúc mâu thuẫn căng thẳng nhưng họ một lòng đấu tranh vì nền độc lập của Việt Nam. Ý thức chống thực dân và đòi độc lập ngày càng được các lính thợ phát biểu công khai dưới nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực hay từ chối chào lá cờ tam tài. Từ năm 1945 đến 1948, chính quyền Pháp huy động lực lượng của Bộ Nội vụ thẳng tay tống giam những người đứng đầu các phong trào nói trên hoặc trục xuất họ về Việt Nam với một nhà lao đang chờ sẵn.
Công nhân, binh sĩ và trí thức Việt Nam ở Pháp (tổng cộng 25.000 người) lần đầu tiên tổ chức Đại hội đại biểu người Việt tại đây vào tháng 12/1944 và thành lập Tổng phái đoàn đại diện Việt Nam, một tổ chức hợp pháp, để yêu cầu giải thể MOI, hồi hương, đòi độc lập. Dĩ nhiên, chính phủ De Gaulle phớt lờ.
Sẽ đến một kết thúc có hậu?
Từ năm 1945 đến 1947, chỉ có 1.000 lính thợ được hồi hương vì ốm yếu. Và phải chờ đến năm 1953, ba phần tư lính thợ bị trưng dụng từ năm 1939 mới được trở về nước. Có khoảng 1.000 người định cư hẳn ở Pháp vì hoặc đã lập gia đình hoặc tìm được việc làm ổn định. Với đa số những người trở về, quãng đời đầy bi kịch và oái oăm vẫn chưa kết thúc: Họ bị tống giam ngay vào tù hoặc đưa tới trại lao động cưỡng bức ở Vũng Tàu và lại tiếp tục chịu sự quản thúc, khai thác phi lý của người Pháp thông qua Căn cứ tiếp quản lao động Đông Dương - nơi “tiếp đón” 10.500 lính thợ từ năm 1948 đến 1950. Hành trình hồi hương vẫn chưa chấm dứt. Về đến quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, thời cuộc và thể chế đổi thay, một số người gia nhập ngay kháng chiến, số khác lại bị nhìn với con mắt nghi ngờ vì từng làm việc cho kẻ thù, một số nữa “mắc kẹt” ở miền Nam và chỉ trở về quê nhà nơi đất Bắc sau khi hai miền thống nhất.
Và 70 năm sau, chỉ khoảng 30 cựu lính thợ đã trên dưới 90 tuổi hiện còn sống. Những người ấy, khi đã trở thành cha, ông, rất ít hoặc gần như không “xới” lại chuyện xưa. Những người mà chúng tôi có may mắn gặp gỡ tại Pháp đều giữ một nét tính cách rất thuần Việt: tự hào “khoe” con cháu. Các ông tâm sự rằng đời mình khốn khó, giản dị, đến thời điểm này coi như đã gần xong một kiếp người, chỉ hãnh diện một điều là con cháu hiếu thảo, thành đạt và lương thiện.
Theo lời một số con cháu, cha ông họ không muốn kể nhiều về quá khứ đó, bởi nó buồn thảm và đầy bất công, tủi nhục. Ông Nguyễn Trọng Hoàn (94 tuổi) giải thích rằng không muốn nói về cái nước Pháp thời đó để con cái mình hận mảnh đất mà họ đang sống, bởi chính bản thân ông đã vượt qua nỗi hận.
Nhiều năm trước đây, một số trí thức và cựu lính thợ ở Pháp đã đấu tranh với chính phủ nước này để đòi chính sách đền bù, hoàn trả tiền lương, tiền hưu. Âu đây cũng là một đòi hỏi công bằng, nhưng họ chỉ nhận được những câu trả lời “không thể”. Thời gian đã đi quá xa, những người đáng được hưởng sự đền bù nhất thì nay không còn nữa, thế nên điều ý nghĩa nhất bây giờ là thực hiện những việc làm để tưởng niệm các lao động nhập cư này.
Theo ông Lê Hữu Thọ cho biết thì dưới tác động của công luận và sức ép từ báo chí Pháp, Tòa thị chính thành phố Arles sẽ đặt tên một con đường là Travailleurs Indochinois (Lao động Đông Dương) vào tháng 12 tới. Một trong những hành động ý nghĩa nữa là vận động để Pháp phải công nhận vai trò của nông dân Việt Nam trong việc hồi sinh nghề trồng lúa và sản xuất ra thứ gạo chất lượng tại cực Nam nước Pháp. Đây là một trong những việc được ông Lê Hữu Thọ xem như nghĩa vụ cuối đời để tưởng nhớ các đồng hương đã khuất và giúp thế hệ sau ghi nhớ công lao của những người lính thợ Đông Dương.
Paris, tháng 10/2009.
Tư liệu ảnh trong bài được tác giả Pierre Daum cung cấp và thuộc bản quyền của ông Phạm Văn Nhân, cựu thông ngôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét