Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 1)

Ngày Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN (phần 1)
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!



Bài giảng cũ:
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

PHẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU

I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
 1 Đầu tư và xây dựng cơ bản
 Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu thời kỳ kế hoạch .
 Nói một cách tổng quát đầu tư phát triển là việc sử dụng nguồn lực vật chất (tiền vốn, vật tư, thiết bị, sức lao động...) để xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của nền kinh tế, tạo ra năng lực các ngành sản xuất như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thuỷ lợi, điện lực và các ngành cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, thể dục thể thao....

Trong phạm trù công tác quản lý thì đầu tư phát triển bao gồm có hai nội dung: Đầu tư và xây dựng cơ bản
Đầu tư là bước khởi đầu một quá trình chọn lựa, sử dụng hướng đích các nguồn lực vật chất cho phát triển, bao gồm cả công tác quy hoạch, chủ trương đầu tư, quản lý nguồn vốn.
Xây dựng cơ bản là bước triển khai thực hiện các mục tiêu đầu tư theo  từng công trình dự án cụ thể để hình thành các cơ sở vật chất kỷ thuật cho nền kinh tế xã hội.
Để tăng cường chất lượng công tác đầu tư phát triển, người ta thường đưa ra 2 loại giải pháp:  
Một là, tăng cường công tác quản lý đầu tư  với các nội dung như:
Rà soát, cập nhật các bản quy hoạch phát triển ngành, vùng, quy hoạch các sản phẩm. Củng cố và chấn chỉnh lại các cơ quan quản lý đầu tư, các ban quản lý dự án. Rà soát, sắp xếp lại các tổ chức tư vấn đầu tư. Nâng cao chất lượng các báo cáo nghiên cứu khả thi. Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư bao gồm các khâu thông qua chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và đánh giá dự án.
Tăng cường công tác giám định đầu tư, kiểm tra, kiểm soát ở tất cả các ngành, các cấp, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm các qui định về quản lý đầu tư, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong đầu tư.
Hai là, tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về xây dựng:
Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức tư vấn trong khâu khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, tăng cường giám sát thi công theo đúng qui trình, theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng vật tư thiết bị trong nội dung thiết kế được phê duyệt.
Rà soát, xây dựng bổ sung các định mức, đơn giá xây dựng; tăng cường quản lý xây dựng; đặc biệt là các công trình sử dụng vốn nhà nước. 
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các chủ đầu tư, các nhà thầu thi công, các ban quản lý dự án ở tất cả các ngành, các cấp, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm các qui định về quản lý xây dựng, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong xây dựng.
Qui định rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng sản phẩm công trình như chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, thiết kế, đơn vị thi công, 
Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra chất lượng thi công, kịp thời phát hiện những sai phạm trong tổ chức thi công, nghiệm thu theo đúng các điểm dừng kỹ thuật, nếu phát hiện có những sai phạm phải đình chỉ thi công để có biện pháp khắc phục.
2. Vốn và các phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển:
(1) Vốn
Trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, khái niệm “vốn” được mở rộng về phạm vi và có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị, có nghĩa là vốn phải đại diện cho một loại giá trị hàng hoá, dịch vụ hoặc một loại giá trị tài sản nhất định. Việc in tiền ra một cách vô ý thức rồi bỏ vào đầu tư không phải là một hành động lành mạnh, vì không đại diện cho một lượng vật chất nhất định, do đó sẽ gây ra hậu quả lạm phát nghiêm trọng.
- Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền chỉ trở thành vốn khi nó được sử dụng vào mục đích đầu tư hoặc kinh doanh. Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền dự trữ không có khả năng sinh lời không phải là vốn.
- Trong nền kinh tế thị trường, vốn cũng là một loại hàng hoá nhưng là một loại hàng hoá đặc biệt. Nó có đặc điểm giống các hàng hoá khác là đều có chủ sở hữu, nhưng người chủ sở hữu vốn chỉ bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Chính nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời.
Vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền mà vốn còn được biểu hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình. Tiềm năng và lợi thế vô hình là một nguồn vốn to lớn cần phải được huy động vào chu trình vận động của nền kinh tế. Nếu không “giá trị hoá” được nó thì nó không thể trực tiếp phục vụ cho phát triển kinh tế mà vẫn chỉ là vốn ở dạng tiềm năng mà thôi.
Vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể phân ra 4 nguồn vốn đầu tư chính như sau:
+ Thứ nhất, nguồn vốn tài chính là khoản tiền tiết kiệm được từ thu nhập sau khi đã sử dụng cho mục đích tiêu dùng thường xuyên. Nguồn vốn tài chính có thể được hình thành ở trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn tài chính được chia thành nguồn tiết kiệm của tư nhân, của doanh nghiệp và của Chính phủ.     
+ Thứ hai, nguồn nhân lực là tài sản quý giá nhất của một quốc gia vì con người là động lực của mọi sự phát triển. Nhưng con người không chỉ tàng trữ sức lao động mà còn là đối tượng hưởng lợi ích của kết quả đầu tư. Do vậy, việc phát triển các nguồn nhân lực phải kết hợp với việc kế hoạch hoá dân số một cách hợp lý. Vì nếu nguồn nhân lực tăng quá nhanh sẽ gây ra sức ép đối với vấn đề giải quyết việc làm, đồng thời làm giảm hiệu quả đầu tư.
+ Thứ ba, nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm rất nhiều loại như tài nguyên khoáng sản (trên mặt đất và trong lòng đất, dưới đáy biển), tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên đất đai, nguồn nước,... Phần lớn các loại tài nguyên thiên nhiên đều có giá. Đây là nguồn vốn rất quan trọng của một quốc gia, cần được khai thác, sử dụng theo một quy hoạch hợp lý, vừa phục vụ cho lợi ích con người, vừa bảo tồn và phát triển được nguồn lực, làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Thứ tư, nguồn vốn vô hình bao gồm nguồn vốn khoa học và công nghệ, tức là các sản phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh vực khoa học và công nghệ như các phát minh khoa học, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,... và các nguồn vốn vô hình khác như vị trí địa lý, thuận lợi, uy tín của doanh nghiệp, lợi thế kinh doanh, các ngành nghề truyền thống,...
Nhìn chung, việc hoạch định chiến lược vốn phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào cũng đều phải dựa trên cơ sở huy động toàn bộ các nguồn vốn nêu trên. Điều đó càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta khi bước vào giai đoạn thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
(2) Phương thức huy động vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, từ nhiều thế kỷ nay đã hình thành và ngày càng được cải tiến, hoàn thiện một hệ thống tài chính, bao gồm các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian, với một chức năng chính là chuyển các nguồn vốn từ những người có vốn tới những người cần vốn. Nhờ có sự hoạt động của hệ thống tài chính này, mọi nguồn vốn và nhu cầu vốn của xã hội được huy động và đáp ứng. Có thể nói, hoạt động của các thị trường tài chính với nhiều phương tiện tài chính ngày một đa dạng cùng với hoạt động của các trung gian tài chính ngày nay đã trở thành một trong những nhân tố quyết định và kích thích cho nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các nước trên thế giới.
Hệ thống tài chính và chức năng chuyển tải các dòng vốn của nó trong nền kinh tế thị trường được mô tả qua mô hình sau:
Mô hình hệ thống tài chính

                                 Phương thức gián tiếp
        
                                               Các trung
                                             gian tài chính
                                                                                        Vốn
Vốn                                                                                               
                                                 Vốn
















Người cần vốn
1. Các công ty.
2. Chính phủ.
3. Các hộ gia đình.
4. Nước ngoài.
(cá nhân, tổ chứcc, Chính phủ)
 
Người có vốn
1. Người cho vay.
2. Nhà đầu tư.
3. Chính phủ.
4. Các tổ chức kinh tế.
5. Ngước ngoài.
(Cá nhân, tổ chức, Chính phủ)
 
                                       
                              Vốn      Các thị trường       Vốn                                          
                                               tài chính   
                                                                                               




                                       Phương thức trực tiếp

Qua mô hình hệ thống tài chính trên đây cho thấy vốn có thể được chuyển từ nguồn (người có vốn) đến nơi sử dụng (người cần vốn) bằng phương thức gián tiếp được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức trung gian này thực hiện chức năng chuyển vốn bằng cách vay vốn của người có vốn và sau đó cho người cần vốn vay. Phương thức trực tiếp được thực hiện thông qua “mua bán” vốn trực tiếp tại các thị trường tài chính mà bên mua là người cần vốn và bên bán gồm người có vốn và các tài chính trung gian.
Qua kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp có nền kinh tế phát triển có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
- Thứ nhất, phương thức huy động vốn gián tiếp quan trọng hơn nhiều lần so với phương thức huy động vốn trực tiếp.
- Thứ hai, trong phương thức huy động vốn gián tiếp thì các nguồn vốn vay của các ngân hàng là quan trọng nhất để tài trợ cho các doanh nghiệp.
- Ba là, nguồn vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu thì nguồn vốn trong nước vẫn giữ vai trò quyết định.
- Bốn là, vấn đề huy động vốn là quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nhưng vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả mới thực sự quyết định, nó phải đảm bảo sự phát triển bền vững, lâu dài.
Suy đến cùng của dòng vốn (trong nước cũng như nước ngoài) là một dòng chảy. Nếu dòng chảy lưu thông, không bị ách tắc ở cuối dòng - đầu ra (khâu sử dụng) thì mọi nguồn vốn sẽ ồ ạt chảy vào, không cần khơi mạnh (huy động). Ngược lại, một khi đầu ra bị ách tắc (sử dụng vốn không có hiệu quả) thì dòng chảy ngừng trệ, ứ đọng, ô nhiễm và cuối cùng sẽ bị đổi chiều - vốn sẽ tuôn chảy ra ngoài.
3. Xác định khả năng  nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội:
Quy trình dự báo vốn đầu tư.
Để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo các mục tiêu trong thời kỳ kế hoạch, cần phải dự báo và tính toán khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển. Có 3 phương pháp xác định như sau::
Phương pháp thứ nhất:
         I = ICOR *     GDP 
Trong công thức trên:  I  là tổng vốn đầu tư,
                                   ICOR là hệ số xác định số đơn vị vốn đầu tư cần thiết để tăng được một đơn vị gia tăng GDP,
                                     GDP  là giá trị gia tăng tổng sản phẩm trong nước, được xác định bằng giá trị GDP của năm t + 1 trừ giá trị GDP của năm t.
Ghi chú:
Hệ số vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu tương đối, phản ảnh hiệu quả vốn đầu tư.  Về mặt ý nghĩa kinh tế có thể diễn đạt như sau:
Để tăng thêm 1% tăng trưởng GDP, thì tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP cần phải tăng thêm bao nhiêu %.
Ví dụ năm 2002, tăng trưởng GDP là 7%, tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP là 34%, thì hệ số vốn đầu tư  ICOR = 34 : 7 = 4,8;
Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số vốn đầu tư
- Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng kinh tế, theo thành phần kinh tế. Đầu tư nhiều vào các cơ sở sản xuất, trực tiếp tạo ra GDP và làm tăng giá trị GDP thì hệ số vốn có xu hướng giảm. Ngược lại nếu tập trung nhiều hơn vào các ngành và lĩnh vực không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá (đầu tư vào giao thông, hạ tầng xã hội, xoá đói giảm nghèo....) sẽ làm cho hệ số vốn cao hơn, xét về mặt nào đó là kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong đầu tư phải cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng và các thành phần kinh tế.
- Qui mô của các dự án đầu tư cũng ảnh hưởng đến hệ số vốn. Có càng nhiều công trình với qui mô lớn, thời gian xây dựng kéo dài, sẽ có xu hướng làm tăng hệ số vốn. Ngược lại, nếu đầu tư nhiều dự án qui mô nhỏ thì hệ số vốn sẽ nhỏ đi do nhanh chóng đưa vào khai thác sử dụng, tạo ra sản phẩm hàng hoá.
- Trình độ quản lý trong đầu tưu và xây dựng cũng có tác dụng tăng hoặc giảm hệ số vốn đầu tư. Quản lý tốt, không để thất thoát lãng phí, suất đầu tư nhỏ, sẽ tạo điều kiện để giảm hệ số vốn đầu tư.   
 Như vậy bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo điều kiện để tăng hiệu quả đầu tư, tác động không cho hệ số vốn tăng nhanh. Tuy nhiên xu thế hệ số vốn sẽ tăng dần do càng ngày càng có nhiều công trình dự án với qui mô lớn hơn, càng ngày càng phải đầu tư các dự án ở những nơi kém lợi thế hơn về mặt sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, suất đầu tư lớn hơn.
Việc kết hợp giữa yêu cầu tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, tạo nhiều việc làm, giải quyết công bằng xã hội cũng là những yếu tố làm tăng hệ số vốn đầu tư, ít nhất là trong thời gian gần (trước mắt).
Điều đó đòi hỏi phải tìm ra cơ cấu đầu tư thật hợp lý cả về cơ cấu ngành, lĩnh vực; cơ cấu qui mô các loại dự án; cơ cấu đầu tư theo các thành phần kinh tế... Đồng thời phải có chính sách phù hợp để quản lý tốt hơn nguồn vốnd đầu tư.
Một số chú ý
Hệ số vốn là chỉ tiêu hiệu quả nhưng mang tính tương đối. Chẳng hạn khi tăng trưởng GDP là âm, sử dụng khái niệm nêu trên là không giải thích được (Hồng công trong những năm qua là ví dụ). Trường hợp khác, khi tăng trưởng GDP là rất nhỏ vì nhiều nguyên nhân như ở Hồng công năm 1998 GDP tăng 0,1%, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP là 32,6%, thì hệ số vốn là 326 (rất khó giải thích).  
    Phương pháp thứ hai:
Xác định tổng vốn đầu tư trên cơ sở phân tích bản cân đối tích luỹ - tiêu dùng trong nền kinh tế theo mô hình sau:



















Theo mô hình trên thì:
ở khu vực dân cư:
Sp= GDP - T - Cp
Trong đó:
 Sp- Tích luỹ khu vực dân cư (hộ gia đình). Trong thực tế, tích luỹ khu vực dân cư được chia thành 2 quỹ: cho đầu tư phát triển (Ip) theo kênh gián tiếp và kênh trực tiếp và để giành (Spp).
Sp = Ip + Spp
GDP sử dụng bao gồm tích luỹ (S), tiêu dùng (C) và chênh lệch XNK hàng hoá và dịch vụ ( M - X); được tính theo công thức: GDP = C + S +( M -X).
T- Các loại thuế và chi phí phải đóng góp.
Cp- Chi tiêu thường xuyên và cấp thiết của khu vực dân cư.
Như vậy;
Ip = GDP - T - Cp- Spp, trong đó Spp là số để dành trong dân cư, không đưa ra đầu tư
Nếu Sp = Ip
(Ip là khối lượng vốn đầu tư phát triển của khu vực dân cư)
Điều đó có nghĩa là tất cả số tiền còn được sau khi đã trừ đi các khoản chi tiêu sẽ đưa toàn bộ vào đầu tư phát triển. Đó là trường hợp lý tưởng nhất làm cho khối lượng nguồn vốn đầu tư trong nước tăng lên nhanh. Và muốn vậy thì cơ chế chính sách đầu tư của Nhà nước phải thật khuyến khích, hấp dẫn.
Trong khu vực Chính phủ:
Sg = T - Cg
Nguồn tích luỹ của Chính phủ (Sg) có được là do sau khi huy động thuế và phí (T) vào Ngân sách trừ đi những khoản chi tiêu dùng thường xuyên của Chính phủ (Cg). Như vậy rõ ràng rằng nguồn vốn này lớn hay bé là phụ thuộc vào tỷ lệ động viên thuế và phí vào Ngân sách là lớn hay bé và các khoản chi tiêu dùng thường xuyên của Chính phủ bé hay lớn.
Tích luỹ của Chính phủ được phân hai quỹ: đầu tư phát triển (Ig) và trả nợ, viện trợ (Pg). Như vậy:
Sg = Ig + Pg
Ig = T - Cg - Pg
 Và như vậy, tổng khối lượng vốn đầu tư phát triển I được tính là:
I = Ip + Ig = GDP - Cp- Spp  -Cg -Pg
Trong trường hợp lý tưởng thì :
Imax = Sp + Sg
Trong quá trình tính toán, việc xác định và dự báo các quan hệ tỷ lệ trong từng thời kỳ về huy động thuế và phí vào Ngân sách, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng khu vực Nhà nước, quan hệ tích luỹ tiêu dùng khu vực dân cư, quan hệ tích luỹ và đầu tư xây dựng cơ bản trong cả 2 khu vực là hết sức cần thiết.
Trong nhiều năm qua mối quan hệ tỷ lệ đó dược thực hiện dược như sau:
Khả năng động viên thuế và phí vào ngân sách vào khoản 19-20% GDP.
Tỷ lệ giữa tiêu dùng và tích luỹ  của ngân sách khoảng 70-30%.
Tỷ  lệ trả nợ và viện trợ chiếm khoảng 50% vốn tích luỹ.
Tỷ lệ giữa tiêu dùng và tích luỹ khu vực dân cư khoảng 65-35%.
Tỷ lệ để dành trong tích luỹ khu vực dân cư khoảng 40 -45%.

Phương pháp thứ 3:
Xác định tổng vốn đầu tư phát triển từ việc dự báo khả năng huy động  5 nguồn vốn như sau:
- Nguồn vốn đầu từ Ngân sách Nhà nước, được huy động từ bản cân đối thu chi Ngân sách. Trên cơ sở thực hiện chính sách chi Ngân sách tiết kiệm và có hiệu quả, sẽ giành phần đáng kể cho chi đầu tư phát triển.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, nguồn vốn này do Nhà nước huy động từ vốn của ngân hàng, vốn vay dân cư và một phần nguồn vốn ODA cho vay lại.
- Nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này bao gồm vốn khấu hao cơ bản để lại, lợi nhuận sau thuế, phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp, vốn cổ phần hoá, vốn nhà xưởng, đất đai chưa sử dụng đến có thể huy động trong kỳ kế hoạch.
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân đầu tư trực tiếp vào các công trình,  Tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư chiếm bình quân vào khoảng 15,0% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp (cho Ngân sách vay, ngân hàng vay và cho các doanh nghiệp Nhà nước vay) vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng số tiết kiệm của dân cư; số còn lại, bằng các cơ chế chính sách sẽ huy động tối đa cho dân cư đầu tư trực tiếp xây dụng các công trình phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sẽ ưu tiên kêu gọi nguồn vốn FDI vào các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng rừng, xây dựng các vùng nguyên liệu chế biến lương  thực, thực phẩm, khuyến khích hưóng vào xây dựng những khu công nghiệp có trình độ công nghệ cao, những khu chế xuất, những xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng, hoá dầu, lọc dầu, khai khoáng, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, viễn thông, cảng, sân bay, điện, sản xuất thép, phân bón, hoá chất,.. và khuyến khích đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm, những vùng có nhiều tài nguyên nhưng điều kiện khai thác còn hạn chế.

Ngoài 3 phương pháp tính toán trên, người ta còn dùng phương pháp tính toán theo hiện vật, để kiểm định lại khả năng thực hiện vốn đầu tư trên từng địa bàn, không mang tính định lượng xác định tổng nguồn vốn đầu tư.
Sẽ dùng công thức cổ điển để kiểm định như sau:
Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản = tổng vốn thiết bị + tổng vốn xây lắp + tổng vốn kiến thiết cơ bản khác.
Trong đó:
- Tổng vốn thiết bị bao gồm:
+Tổng giá trị thiết bị máy móc sản xuất trong nước (trên địa bàn) đưa vào đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.
+ Tổng giá trị thiết bị máy móc nhập ngoại (từ ngoài địa bàn) đưa vào đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.
- Tổng vốn xây lắp bao gồm:
+ Giá trị toàn bộ ngành vật liệu xây dựng sản xuất trong nước (trên địa bàn) đưa vào xây lắp.
+ Giá trị toàn bộ các loại vật liệu xây dựng nhập ngoại (từ ngoài địa bàn) đưa vào xây lắp.
+ Giá trị toàn bộ thiết bị máy móc thi công đưa vào xây lắp.
+ Giá trị toàn bộ tiền lương của công nhân được huy động vào xây lắp.
- Tổng vốn kiến thiết cơ bản khác gồm:
+ Giá trị toàn bộ đất đai đưa vào xây dựng công trình kể cả việc đền bù.
+ Giá trị tính bằng tiền những công việc khác phục vụ cho công tác xây dựng cơ bản. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét