Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Khởi thủy suy tàn của đế chế Angkor

Ngày Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013 Blog của Báo Mới Hà Nội chia sẻ với bạn đọc bài viết Khởi thủy suy tàn của đế chế Angkor
Chúc bạn xem tin tức vui vẻ !!


Khởi thủy suy tàn của đế chế Angkor
Tác giả: Richard Stone
Angkor Thiêng Liêng Sau khi vươn lên những chiều cao hùng vĩ, có lẽ thành phố thánh đã thiết kế sự suy sụp cho chính nó. (Divining Angkor After rising to sublime heights, the sacred city may have engineered its own downfall)
Từ không trung, ngôi đền cũ từ hàng nhiều thế kỷ xuất hiện và biến mất như một ảo ảnh. Thoạt tiên, nó không hơn gì một vết nhòe nâu sậm trong vòm rừng phía Bắc Cambodia. Bên dưới chúng tôi là thành phố tiêu vong Angkor, hiện tại bị tàn phế và cư dân hầu hết là nông dân làm ruộng lúa. Từng khóm nhà Khmer, dựng đứng trên những cây cọc để đối phó với lũ lụt trong vụ gió mùa hè – chấm phá thành một phong cảnh từ hồ Tonle Sap, một “hồ vĩ đại” của vùng Đông Nam Á, khoảng 20 dặm về hướng Nam, đến dãy đồi núi Kulen – một chỏm nhô ra từ miền đồng bằng đất lụt trong một khoảng cách tương đương về hướng Bắc. Rồi, trong khi Donald Cooney lái chiếc máy bay rất nhỏ lượn trên đầu những ngọn cây, ngôi đền hùng tráng hiện ra trong tầm mắt.

Khôi phục vào thập niên 1940s, ngôi đền Banteay Samre, cất vào thế kỷ thứ 12, dâng hiến cho vị thần Ấn Độ giáo Vishnu, gợi lại một Đế Quốc Khmer hưng thịnh vào thời Trung Cổ. Ngôi đền được bao quanh bởi hai hành lang có vách tường vuông và đồng tâm. Có lẽ đã có lúc những vách tường này được bao bọc bởi một hào nước tượng trưng cho đại dương bao tròn ngọn núi Tu Di [i], tức là nơi cư trú huyền thoại của các vị thần Ấn Độ giáo. Banteay Samre chỉ là một trong hơn một ngàn ngôi đền mà người Khmer dựng lên tại thành phố Angkor trong một giai đoạn kiến thiết thoải mái trong quy mô và tham vọng trở nên đối thủ với các kim tự tháp của Ai Cập. Sau khi chúng tôi bay qua, tôi thò cổ ra nhìn lần chót. Ngôi đền đã biến mất trong rừng.

Angkor là cảnh của một trong những hoạt động lớn nhất bị biến mất từ xưa đến nay. Vương quốc Khmer tồn tại từ thế kỷ thứ 9 đến 15, và vào lúc cực thịnh, đã chế ngự trên một lằn cắt rộng lớn ở Đông Nam Á châu, từ Miến Điện ở hướng Tây đến Việt Nam ở hướng Đông. Có tới 750,000 người sống tại Angkor, tức thủ đô của vương quốc, trải dài qua một khu vực bằng cỡ năm thị xã của thành phố New York, biến nó thành một quần thể đô thị lớn nhất của thế giới thời tiền kỹ nghệ. Vào cuối thế kỷ thứ 16, khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha xông vào các tháp có dáng hoa sen của đền Angkor Wat – một đền trau chuốt nhất trong các ngôi đền của thành phố và là cổ tích tôn giáo lớn nhất thế giới – thì thủ đô một thời huy hoàng của đế quốc đã lặng chết trong đau đớn.


Các học giả đưa ra một danh sách dài những nguyên nhân được nghi ngờ là lý do khiến Angkor Wat bị tàn phế, chẳng hạn như do kẻ xâm lược tham tàn, do chủ ý thay đổi tôn giáo, hoặc do chuyển qua việc mậu dịch đường biển nên thành phố trong đất liền bị hủy bỏ. Hầu hết đều là phỏng đoán: Khoảng 1,300 chữ khắc hãy còn trên những cột cửa và bia đá dựng riêng rẽ, nhưng người Angkor đã không lưu lại một chữ nào để giải thích sự sụp đổ của vương quốc họ.

Các vụ khai quật gần đây, không phải khai quật các đền mà là hạ tầng kiến trúc của thành phố rộng lớn này, cùng đưa đến một câu trả lời mới. Số phận Angkor, như nó xuất hiện, đã được phán quyết bởi ngay chính sự tinh xảo của nó, mà mục tiêu ban đầu là nhằm cải biến một tập hợp những lãnh địa nhỏ thành một đế quốc. Nền văn minh Angkor đã học cách khống chế những cơn lũ lụt của vùng Đông Nam Á châu, sau đó phai mờ vì việc quản trị nước – một nguồn tài nguyên tối quan trọng tại đây – bị vuột mất.

Một câu chuyện hấp dẫn, viết ngay tại chỗ, kể lại sinh hoạt vào lúc cực thịnh của thành phố. Vào cuối thế kỷ thứ 13, Chu Đạt Quan [ii], một sứ thần Trung quốc, đã sống gần một năm tại thủ đô. Ông sống một cách khiêm tốn như một người khách của một gia đình trung lưu, ăn cơm với muỗng làm bằng vỏ dừa và uống rượu làm từ mật ong, lá cây, hoặc gạo. Ông mô tả một tập quán ghê tởm – đã được từ bỏ không bao lâu trước khi ông đến viếng – đó là tập quán thu thập lá mật từ những người còn sống biếu tặng để dùng làm chất bổ tăng can đảm. Các hội hè tôn giáo mang đặc điểm đốt pháo và đấu heo rừng. Cảnh bắt mắt nhất xảy ra khi vua mạo hiểm xuất cung với đoàn tùy tùng và đồ vật. Đám ruớc hoàng gia gồm có voi và ngựa được trang hoàng bằng vàng, và hàng trăm cung nữ trang sức với bông hoa.

Tiết tấu sinh hoạt hàng ngày của Angkor cũng sống lại qua các điêu khắc đã tồn tại qua nhiều thế kỷ mục nát và, gần đây nhất là chiến tranh. Những phù điêu chạm trổ thấp tại mặt tiền của đền vẽ cảnh sinh hoạt hàng ngày – thí dụ, hai người đàn ông khom người xuống một bàn cờ, và một người đàn bà đang sinh con dưới mái đình phủ bóng mát – và cảnh sùng kính đối với thế giới thần linh, trong đó có những sinh vật như apsaras cư trú, tức là những vũ nữ trên thiên đàng, đẹp một cách quyến rũ và phục vụ như là những sứ giả giữa con người và thần linh.

Những phù điêu chạm trổ thấp cũng bộc lộ phiền nhiễu trên thiên đàng. Xen kẽ với nhãn quan của sự hài hòa nhân gian và sự khai sáng đáng phục là những cảnh chiến tranh. Tại một phù điêu chạm trổ thấp, các chiến sĩ mang giáo, của vương quốc Chiêm Thành lân cận, đứng đầy từ đầu thuyền đến cuối thuyền và đang vượt qua hồ Tonle Sap. Đương nhiên, cảnh đó bất tử trên đá bởi vì người Khmer chiến thắng cuộc chiến này.

Mặc dù Angkor thắng trận xung đột đó, thành phố đã bị tan hoang bởi cuộc cạnh tranh, gia tăng mạnh mẽ tính chất dễ bị tổn thương của nó bởi các vụ tấn công từ Chiêm Thành về hướng Đông và vương quốc đáng sợ Ayutthaya [iii] về hướng Tây. Các vua Khmer thường có vài vợ khiến dòng con thừa kế bị mập mờ và hậu quả là luôn luôn có âm mưu vì các vương tử tranh đoạt quyền lực. Roland Fletcher, một khảo cổ gia tại Đại Học Sydney và là đồng giám đốc của một nỗ lực nghiên cứu được gọi làDự án Angkor Vĩ Đại Hơn (Greater Angkor Project) nói rằng, “Qua nhiều thế kỷ, nó giống như trận chiến tranh hoa hồng [iv]. Vương quốc Khmer thường xuyên bất ổn định.”

Vài học giả tin rằng Angkor tử vong do chính phong cách sinh hoạt của nó: sử dụng kiếm thương. Bộ biên niên sử của vương quốc Ayutthaya ghi rằng chiến sĩ của vương quốc đó “chiếm” Angkor vào năm 1431. Rõ ràng thành phố Khmer phồn vinh là một giải thưởng sung túc: chữ khắc trên đá khoe rằng các tháp đền được bọc bằng vàng, như câu chuyện đáng kinh ngạc của Chu Đạt Quan đã xác nhận. Để giải thích những câu chuyện về sự giàu có của Angkor cùng những phế tích mục nát mà du khách Tây phương gặp phải thì cách nay một thế kỷ, các sử gia Pháp quốc kết luận rằng do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

Fletcher nói ám ảnh của ông là “nghĩ cho ra điều gì khiến các vụ định cư phát triển và tàn lụi,” hãy còn mơ hồ. Ông nói rằng vài học giả trước đã nhìn Angkor qua lăng kính của các vụ bao vây và chiến thắng trong lịch sử Âu châu. Fletcher nói, “Trong thực tế, nhà cai trị Ayutthaya nói rằng ông chiếm Angkor, và ông có thể chiếm vài biểu tượng và y phục chính thức của quốc vương để mang về Ayutthaya.” Nhưng sau khi Angkor bị chiếm, nhà cai trịAyutthaya thiết lập con của ông ta lên ngai vàng. ”Hầu chắc ông sẽ không tàn phá Angkor trước khi giao Angkorcho con trai ông.” [v]

Có lẽ âm mưu của triều đình không gây lo nghĩ cho hầu hết các chủ đề về Angkor, nhưng tôn giáo là trung tâm điểm đối với đời sống hàng ngày. Những nhân chủng học gia gọi Angkor là một thành phố của lễ nghi vua chúa. Những quốc vương của nó tự xưng là hoàng đế trên thế giới của kho tàng Ấn Độ giáo và xây dựng miếu đền cho chính họ. Nhưng vì Phật giáo Tiểu Thừa dần dần làm lu mờ Ấn Độ giáo trong thế kỷ thứ 13 và 14, tôn chỉ của Phật giáo Tiểu Thừa về sự bình đẳng xã hội có lẽ đã uy hiếp giai cấp tinh hoa của Angkor. Fletcher nói, “Phật giáo Tiểu Thừa làm suy yếu rất nhiều, giống như Cơ Đốc giáo làm suy yếu đế quốc La Mã. Cực kỳ khó khăn để chặn đứng Phật giáo Tiểu Thừa.”

Một chuyển biến tôn giáo như thế sẽ xói mòn quyền uy của triều đình. Thành phố của lễ nghi vua chúa vận hành trên một nền kinh tế không dùng tiền tệ, nương tựa vào cống vật và thu thuế. Tiền tệ thực tế của vương quốc là gạo, tức là sản phẩm của những người lao động bị trưng dụng – những người xây dựng đền miếu và nhóm hàng ngàn người điều khiển họ. Một bảng khắc chữ trên đá tại khu đền Ta Prohm ghi rằng 12,640 người đã chỉ phục vụ cho đền đó. Bảng khắc chữ cũng ghi rằng hơn 66,000 nông dân sản xuất gần 3,000 tấn gạo mỗi năm để nuôi ăn tập thể sư sãi, vũ nữ, và công nhân xây đền này. Chỉ cần cộng ba ngôi đền lớn với phương trình giống như thế – Preah Khan và khu quần thể lớn Angkor Wat và Bayon – và số lao động nông dân cần thiết sẽ bộc lên tới 300,000 người. Đó là bằng gần phân nửa dân số được ước tính cho thành phố Angkor Vĩ Đại Hơn. Có lẽ một tôn giáo bình đẳng, mới như Phật giáo Tiểu Thừa đã dẫn đến nổi loạn.

Hoặc giả chỉ đơn giản là triều đình hoàng gia từ bỏ Angkor. Những người thừa kế cai trị có tập quán xây dựng các quần thể miếu đền mới và để cho các quần thể miếu đền cũ mục nát, và cái sở thích xây dựng miếu đền mới đó có lẽ đã kết liễu thành phố khi mậu dịch hàng hải bắt đầu bộc phát giữa Đông Nam Á châu và Trung quốc. Có lẽ chủ nghĩa cơ hội kinh tế đơn giản, vào thế kỷ thứ 16, đã khiến trung tâm quyền lực Khmer di chuyển đến một địa điểm gần sông Mekong hơn, gần với thủ đô Cambodia ngày nay là Phnom Penh, để giúp sự đi vào Biển Đông dễ dàng hơn.

Động loạn tôn giáo và kinh tế có lẽ đã thúc đẩy Angkor suy sụp nhanh hơn, nhưng những người cai trị nó đã bị tấn công bất ngờ bởi một kẻ thù khác. Angkor trở thành một nhà máy nước thời Trung Cổ nhờ vào một hệ thống tinh xảo gồm những kinh đào và hồ chứa nước để giúp cho thành phố tích trữ nước khan hiếm trong các tháng hạn và phân phát nước thừa trong mùa mưa. Những lực lượng nằm ngoài vòng kiểm soát của Angkor đã quăng bộ máy được điều chỉnh sắc sảo này vào tình huống hỗn loạn.

Một trong những địa điểm thần thánh nhất của Angkor nằm cao trên dãy núi đồi Kulen, tại đầu nguồn của hai dòng sông Puok và Siem Reap. Dưới bóng những cây sung sần sùi, chìm dưới làn nước trong lững lờ trôi của một con lạch, là hàng hàng những khối u hình trụ tròn, mỗi khối rộng khoảng sáu inches [vi], khắc vào nền sa thạch đậm màu của đáy sông. Đó là nhữnglingams [vii] sờn mòn, tức là những điêu khắc đá có hình khối trụ tròn tượng trưng cho bản chất của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Những hàng lingams dẫn dắt giống như một con đường đến một điêu khắc khác ở đáy sông: một khoảnh vuông vách tường dầy, rộng một yard [viii], với một lỗ vào nhỏ. Đó là một yoni, một tượng trưng cho nguồn gốc của đời sống trong Ấn Độ giáo.

Những đại sư Angkor đến đây để cảm tạ thần linh đã cung cấp dòng máu sinh mệnh cho vương quốc. Đi bộ một khoảng ngắn lên phía thượng nguồn là một cây cầu thiên nhiên bằng sa thạch, chia sẻ cho khu thánh địa này danh xưng Kbal Spean – tiếng Khmer nghĩa là “đầu cầu hoặc vùng yếu địa.” Nước chảy xiết qua một cái khe, văng tung tóe vào một tảng đá kế cận, đập vào nơi mà thần Vishnu [ix], tréo chân, trầm tư mặc tưởng trên một đại dương đang phẫn nộ; nổi ra từ rốn của thần là trục tròn hoa sen Brahma. Tại đây, dãy núi đồi Kulen, các thần thời xưa vui hưởng rượu dâng vĩnh cửu từ dòng nước chảy đầy.

Bằng cách khai thác thủy triều gió mùa tuôn ra từ đồi núi Kulen, Angkor và những nhà cai trị của nó bộc phát mạnh mẽ. Từ kỷ nguyên Jayavarman II, tức là người đặt cơ sở cho vương quốc vào đầu những năm 800, sự tăng trưởng của đế quốc tùy thuộc vào những vụ gặt lúa bội thu. Trên toàn vùng Nam Á châu, có lẽ chỉ có các thành phố xưa của các tỉnh Anuradhapura và Polonnaruwa ở Sri Lanka và các hồ chứa nước trứ danh của họ là có thể so sánh với khả năng của Angkor để bảo đảm một nguồn cung cấp nước ổn định.

Mức tin cậy đó đòi hỏi các thành quả kỹ thuật vẹn toàn, bao gồm một hồ chứa nước gọi là hồ Tây dài năm dặm và rộng 1.5 dặm. Để xây cất cái hồ chứa nước này, đứng hàng thứ ba và tinh xảo nhất Angkor cách nay cả ngàn năm, có lẽ đã cần đến 200,000 công nhân Khmer để dồn gần 16 triệu thước khối đất trong các đê chắn rộng 300 feet và cao ba tầng. Cho đến nay, cái hồ hình chữ nhật này, hay baray, được tiếp nước bị chuyển hướng từ sông Siem Reap.

Vị học giả đầu tiên tán thưởng quy mô các công trình nước của Angkor là Bernard-Philippe Groslier, một khảo cổ học gia củaFrench School of Asian Studies (EFEO) [x]. Trong một luận văn có ý nghĩa khám phá vào năm 1979, ông hình dung Angkor như là một “thành phố thủy lực.” Ông lý luận rằng các hồ vĩ đại phục vụ cho hai mục đích: để tượng trưng cho đại dương nguyên thủy của vũ trụ Ấn Độ giáo và để dẫn thủy nhập điền. Thật không may là Groslier đã không thể theo đuổi quan điểm này xa hơn nữa. Trận nội chiến Cambodia, chế độ tàn khốc Khmer Rouge, và vụ đánh đuổi chế độ này bởi quân đội Việt Nam vào năm 1979 biến Angkor thành một cấm khu trong hai thập niên. Sau khi quân đội Việt Nam triệt thoái, bọn cướp cạn đổ về Angkor, ăn cắp các pho tượng và thậm chí đục mất các phù điêu chạm trổ thấp.

Khi Christophe Pottier, một kiến trúc sư và khảo cổ học gia, mở lại trạm nghiên cứu của EFEO tại Angkor vào năm 1992, ưu tiên trước hết là giúp Cambodia khôi phục những đền miếu bị mục nát và cướp phá. Nhưng Pottier bị lôi cuốn vào chốn hoang dã nằm bên ngoài những vách tường đền miếu. Ông bỏ ra nhiều tháng bôn ba một nửa vùng hướng Nam của Angkor Vĩ Đại Hơn bằng xe gắn máy và đi bộ, vẽ bản đồ những mô đất nhà cửa và thánh địa ẩn tàng gần các ao nhân tạo, được gọi là bồn nước. (Tình trạng vô luật pháp dây dưa đã ngăn cản Pottier khảo sát một nửa vùng hướng Bắc.) Rồi, vào năm 2000, Fletcher và đồng nghiệp Damian Evans nhúng tay vào các hình ảnhAngkor chụp bằng radar của NASA. Các hình này là một khám phá: đội thuộc đại học Sydney, làm việc với EFEO và APSARA, một cơ quan Cambodia quản trị Angkor, đã tìm ra nhiều di tích hơn của các vụ định cư, kinh đào, và bồn nước, đặc biệt là tại những địa khu không thể đi vào được của Angkor. Những chuyến bay nhỏ của Donald Cooney đã giúp Fletcher và Pottier, hiện nay là một đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, xem xét những đặc điểm này trong chi tiết tinh tế hơn. Một cách tối quan trọng, họ đã tìm ra các lối nước vào và lối nước ra của các hồ, kết thúc vụ tranh luận tác động bởi công việc của Groslier về việc liệu rằng các hồ chứa nước đồ sộ chỉ được sử dụng cho các lễ nghi tôn giáo hay chỉ cho việc dẫn thủy nhập điền. Câu trả lời rõ ràng là cho cả hai.

Các nhà nghiên cứu kinh ngạc trước tham vọng của các kỹ sư Angkor. Fletcher nói, “Chúng tôi nhận thức ra rằng toàn thể phong cảnh của Angkor Vĩ Đại Hơn là nhân tạo.” Trải qua vài thế kỷ, những đội công nhân xây cất hàng trăm dặm kinh đào và đê điều dựa trên các khác biệt nhỏ trong khuynh hướng tự nhiên của đất để đổi hướng nước chảy từ Puok, Roluos, và sông Siem Reap Rivers vào các hồ. Trong các tháng gió mùa mùa hè, các kênh tràn nước thải giảm phần nước thặng dư. Sau khi mưa thưa dần trong tháng 10 hoặc 11, các kênh dẫn nước tháo nước tồn trữ ra. Có lẽ các hồ cũng giúp bổ sung độ ẩm cho đất bằng cách để cho nước ướt đẫm vào đất. Trên mặt các cánh đồng chung quanh, hơi nước sẽ rút nước ở dưới đất lên để cung ứng cho mùa màng. Fletcher nói, “Đó là một hệ thống thông minh một cách khó tin.”

Hệ thống nước thông minh đó có lẽ đã tạo sự khác biệt giữa tầm thường và vĩ đại. Hầu hết gạo của vương quốc được gieo trồng tại những cánh đồng có đê chắn, nếu không thì phải dựa vào các trận mưa gió mùa hoặc thủy triều lên xuống theo mùa và lưu lượng nước trên vùng đồng bằng đất lụt của hồ Tonle Sap. Sự dẫn thủy thúc đẩy mạnh thu hoạch. Fletcher nói rằng hệ thống cũng có thể cung cấp khẩu phần lương thực để sống còn trong một mùa gió mùa tệ hại. Và khả năng chuyển hướng dòng nước và tồn trữ nước là một phương cách bảo vệ khỏi tai họa lũ lụt. Ông nói trong khi các vương quốc khác ở vùng Đông Nam Á châu vật vã đối phó với tình trạng ít nước quá hoặc nhiều nước quá thì các công trình nước của Angkor sẽ là “một tài sản chiến lược có giá trị sâu sắc.”

Vì vậy Fletcher bị điên đầu khi đội của ông khai quật một trong các mảnh đặc thù của kỹ năng Angkor - một cấu trúc rộng lớn trong các công trình nước – và tìm thấy rằng nó đã bị phá hủy, rõ ràng bởi chính các kỹ sư của Angkor.

Lúc này là lúc gần trưa vào một ngày tháng Sáu, khoảng 10 dặm về hướng Bắc của đền Angkor Wat, và ngay cả ở dưới đáy của một vũng bùn, một đường mương dài 14-foot, thời tiết không dễ chịu chút nào dưới ánh nắng cháy da. Fletcher dở cái nón xanh đậm ra và lau trán. Trông giống như là nhà nghiên cứu điềm tĩnh và tự tin này sẽ phóng vào một giải thích chính xác về các khối đá đỏ xám mà đội của ông, cùng với Chhay Rachna thuộc cơ quan APSARA, đã khai quật. Thay vào đó, ông thở ra và nói, “Cái này đơn giản là tuyệt vời!”

Các khối đá dính sát với nhau, được đẽo từ đất đỏ (đá ong), tức là một loại đất xốp mềm, đầy chất sắt, trở nên cứng khi phô ra trong không khí. Khi Fletcher và Pottier tìm thấy lần đầu tiên một phần của cấu trúc cách nay vài năm, họ nghĩ đó là các phần còn lại của một cửa cống nhỏ.

Ông nói, “Nó trở nên một quái vật.” Các khối đá là tàn tích của một đường thoát nước xuyên qua một cái đập nằm nghiêng mà chiều dài có thể kéo ra bằng một sân chơi football. Khoảng cuối thế kỷ thứ 9, với việc nở rộ của Angkor, các kỹ sư đào một con kinh dài để thay đổi dòng chảy của sông Siem Reap, tái định hướng nó chảy về hướng Nam, đổ vào hồ Đông mới được xây cất – một hồ chứa nước lớn gần bằng như hồ Tây. Cái đập, vị trí đặt ở sông, chuyển hướng nước để cung cấp cho kinh. Nhưng có lẽ một phần của cấu trúc đồ sộ này cũng vận hành như là một đường thoát nước khi gió mùa nổi lên, tức là khi mà nước sẽ phủ ngập cấu trúc thấp và chảy xuống đường sông trước đây.

Các đổ nát của đường thoát nước là một bằng cớ quan trọng đối với một cuộc chiến đấu hào hùng, bộc lộ sự kiện nhiều thế hệ kỹ sư Khmer đã ứng phó với một hệ thống nước trở nên phức tạp và bất quy củ hơn. Fletcher nói, “Có thể họ đã bỏ một phần rất lớn đời sống của họ để tu sửa nó.” Vài khối đá của đập nằm lộn xộn; đại bộ phận của nề hồ bị mất đi. Fletcher nói, “Sự giải thích hợp lý nhất là đập đã thất bại.” Có lẽ con sông đã ăn vào đập, dần dần làm nó suy yếu. Có thể nó bị cuốn trôi đi bởi một vụ lũ lụt hồng thủy bất thường, loại lũ lụt xuất hiện mỗi một thế kỷ hay ngay cả mỗi 500 năm. Sau đó, người Khmer phá tung công trình đá còn sót lại, để dành các khối đá cho mục đích khác.

Một bằng chứng khác về việc thất bại của hệ thống nước, xuất phát từ một cái ao ở đền Tây Mebon, một ngôi đền trên đảo, ở giữa hồ Tây. Hạt phấn hoa bảo tồn trong đất vụn cho thấy hoa sen và các thực vật sống trong nuớc khác đã phát triển mạnh mẽ trong hồ mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 13. Rồi một loại phấn hoa mới xuất hiện, từ những chủng loại như dương xỉ ưa chuộng sình lầy hay đất khô. Ngay vào điểm cực thịnh của Angkor, một trong các hồ chứa nước của nó hiển nhiên có lúc bị khô cạn. Daniel Penny, một chuyên viên về hạt phấn hoa và là đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, nói “Một điều nào đó đã sai lầm sớm hơn rất nhiều khoảng thời gian mà chúng tôi dự kiến.”

Bất cứ hư hỏng nào của công trình nước sẽ khiến Angkor dễ bị tổn thương do hiện tượng tự nhiên mà không có người kỹ sư nào vào thời đó có thể tiên liệu. Bắt đầu vào những năm 1300s, Âu châu chịu đựng một vài thế kỷ có khí hậu bất khả tiên đoán, đánh dấu bởi các mùa đông khắc nghiệt và mùa hè lạnh lẽo. Cho đến gần đây, chỉ có các tin tức sơ sài về các phần khác của thế giới đã biểu hiện như thế nào trong thời kỳ đó, được gọi là Thời Kỳ Băng Tuyết Nhỏ. Rõ ràng là Đông Nam Á châu cũng trải qua biến động đột ngột về khí hậu.

Chung quanh Angkor, vụ gió mùa mùa hè kéo dài từ khoảng tháng 5 cho tới tháng 10 và cung cấp gần 90% lượng nước mưa hàng năm cho khu vực. Một vụ gió mùa đều đặn là tối quan trọng cho mọi hình thức đời sống, kể cả cho con người. Để lật ra những khuôn mẫu gió mùa của thời xưa, Brendan Buckley thuộc Đài Thiên Văn Địa Cầu Lamont-Doherty tại Palisades, New York, mạo hiểm đi vào những cánh rừng Đông Nam Á châu để tìm kiếm những loại cây có những vành tròn tăng trưởng mỗi năm. Ông và đội của ông biết sẽ không dễ dàng: hầu hết các chủng vật tại khu vực này khiếm khuyết những vành tròn tăng trưởng có thể phân biệt được hoặc có những cây không sinh vành từ năm này qua năm nọ. Vài vụ tàn phá cho kết quả tốt với các chủng loại sống lâu, bao gồm cây gỗ teak và po mu, một loại cây bách hiếm. Vài cây po mu mà họ lập danh mục đã sống tới 9 thế kỷ, sống sót qua cả hai thời kỳ cực thịnh và tan rã của Angkor.

Những cây po mu kể lại một câu chuyện đáng kinh ngạc. Các bộ vành tròn tăng trưởng bị thu hẹp lại cho thấy rằng cây đã chịu đựng những vụ hạn hán cực lớn, lặp đi lặp lại, từ năm 1362 đến năm 1392 và từ năm 1415 đến năm 1440. Trong các thời kỳ này, vụ gió mùa bị yếu hoặc trì hoãn, và có vài năm, có lẽ vụ gió mùa hoàn toàn không xảy ra. Trong những năm khác, những vụ gió mùa cực lớn tập kích khu vực này.

Đối với một vương quốc chao đảo thì tình huống khí hậu thái quá có thể đã là một phát súng ân huệ. Hàng nhiều thập niên trước, các công trình nước của Angkor vốn đã bệnh hoạn, phán xét từ hồ Tây không vận hành. Penny nói, “Chúng tôi không biết tại sao hệ thống nước vận hành dưới khả năng của nó – đó là một nan đề. Nhưng điều đó có nghĩa là Angkor thực sự không có dư mỡ để đốt. Thành phố bị phơi ra cho sự đe dọa hạn hán nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử.” Những vụ hạn hán kéo dài và nghiêm trọng, thỉnh thoảng bị mưa như thác đổ, Fletcher nói “sẽ hủy hoại hệ thống nước.”

Tuy nhiên, Penny nói, “chúng tôi không nói rằng địa điểm này trở thành sa mạc.” Dân chúng tại vùng đồng bằng đất lụt Tonle Sap, ở hướng Nam của những đền miếu chính sẽ được che chở từ những hậu quả tệ hại nhất. Hồ Tonle Sap được nuôi dưỡng bởi sông Mekong, có thượng nguồn ở những cánh đồng băng tuyết tại Tây Tạng, sẽ hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của vụ gió mùa. Nhưng các kỹ sư Khmer, với kỹ năng như họ có, không thể làm giảm bớt điều kiện khô cằn ở phía Bắc bằng cách dời nước hồ Tonle Sap áp vào đất đai. Trọng lực là cái bơm duy nhất của họ.

Nếu cư dân vùng phía Bắc Angkor bị đói trong khi các phía khác của thành phố tích trữ gạo thì khung cảnh này sẽ tạo nên lo âu nghiêm trọng. Nhân chủng gia Michael Coethe thuộc đại học Yales nói, “Khi dân số tại các nước nhiệt đới vượt quá khả năng cưu mang của đất đai thì phiền nhiễu thực sự sẽ bắt đầu. Điều này tất nhiên dẫn đến sụp đổ về văn hóa.” Một quân đội bị kém dinh dưỡng, bị bận tâm bận trí vì xung đột nội bộ, sẽ phơi bày thành phố ra cho bị tấn công. Thực vậy, sự xâm lăng của Ayutthaya và trục xuất vua Khmer đã xảy ra vào lúc gần cuối vụ hạn hán cực lớn lần thứ nhì.

Fletcher nói, “Cộng thêm vào những vụ lộn xộn về khí hậu là các phong trào chuyển đổi về tôn giáo và chính trị vốn đã đang nện mạnh vương quốc, và số phận của Angkor đã được khẳng định. Thế giới chung quanh Angkor đang thay đổi. Xã hội đang tiến triển. Sẽ là một ngạc nhiên nếu như Angkor tồn tại được.”

Đế quốc Khmer không phải là nền văn minh đầu tiên bị tai họa khí hậu đánh ngã. Nhiều thế kỷ trước, trong khi Angkor vươn lên thì ở một nửa vòng trái đất, một tổn thất tương tự – liên quan đến sự thăng bằng môi trường – đã nện búa vào các thành phố tại Mexico và Trung Mỹ. Ngày nay, nhiều học giả tin rằng Maya bị ngã sụm vì thặng dư dân số và vì sự thoái hóa môi trường, tiếp theo sau một loạt ba vụ hạn hán tàn bạo vào thế kỷ thứ 9. Coe, người đầu tiên vào thập niên 1950s đã nhận thức rất rõ những điểm tương đồng giữa hai nền văn minh Khmer và Maya, nói “Một cách tất yếu, điều tương tự như vậy đã xảy ra cho Angkor.”

Có lẽ các xã hội hiện đại cần chuẩn bị cho những thử thách khí hậu. Theo Buckley, phát lảy cò súng tương tự như những vụ hạn hán cực lớn của Angkor hầu chắc là El Niño [xi] kịch liệt và dai dẳng đang hâm nóng mặt nước ở vùng trung tâm và nhiệt đới phía Đông của Thái Bình dương. Các khoa học gia tranh luận sự thay đổi khí hậu do con người gây ra sẽ hay không sẽ dẫn đến các El Niños rõ rệt, nhưng các vành cây ở Việt Nam cho thấy ngay cả những dao động tự nhiên ở Thái Bình dương cũng có thể phát ra tai họa.

Sự kết thúc của Angkor là một bài học có chừng mực trong giới hạn của tài trí thông minh của con người. Người Khmer cải biến thế giới của họ – một sự đầu tư đền miếu sẽ bạc đãi những người cai trị vương quốc để tiến đến từ bỏ nó. Fletcher nói, “Hệ thống thủy lực của Angkor là một bộ máy đáng ngạc nhiên, một cơ chế kỳ diệu để điều hành thế giới. Các kỹ sư của nó sắp xếp để bảo trì thành quả trọng đại của một nền văn minh đã vận hành trong sáu thế kỷ – mãi đến khi một lực lượng mạnh hơn áp đảo họ.

Tác giả Richard Stone, làm việc tại Beijing, là biên tập viên đặc trách Á châu cho tạp chí Khoa Học. Robert Clark đã chụp cả tá hình bìa cho tạp chí Geographic.

Nguyên tác: Angkor, by Richard Stone
http://ngm.nationalgeographic.com/2009/07/angkor/stone-text

Chú thích

Núi Tu Di 鬚彌山: theo huyền thoại cổ Ấn Độ, núi Tu Di là ngọn núi của trung tâm thế giới, về sau Phật giáo gọi đó là trung ương của tiểu thiên thế giới, tức là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Theo kinh Trường A Hàm thì núi Tu Di có 4 đại bộ châu (Bắc Câu Lô châu, Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu, và Nam Thiệm Bộ châu) và 8 tiểu bộ châu, và theo Câu Xá Luận thì Tu Di do bốn thứ quý tạo thành: mặt hướng Đông bằng bạc trắng, mặt hướng Bắc bằng vàng, mặt hướng Tây bằng ngọc pha lê, và mặt hướng Nam bằng ngọc lưu ly. Tu Di cao 84,000 Yojanas (vài ngàn dặm), đỉnh núi là Đế Thích thiên, bốn mặt là tứ thiên vương. Theo truyền thuyết, Tu Di là một ngọn núi ở đâu đó về phía Tây của Tây Tạng, nhưng đó chỉ là huyền thoại mà thôi. Nói cách khác, không bao giờ có người nào xác định được vị trí của núi Tu Di. Vài học giả tin rằng đó là núi Pamirs, nằm hướng Đông Bắc của Kashmir.

[ii] Nếu muốn biết thêm chi tiết, xin tìm đọc bài ký sự Ba ngày ở Siem Reap do tôi viết, và cuốn Chân Lạp phong thổ kýcủa Chu Đạt Quan do tôi dịch; cả hai đã đăng tại vài diễn đàn email vào năm 2008.

[iii] Vương quốc Ayutthaya do vua U Thong thành lập vào năm 1350 tại tỉnh Ayutthaya, Thái Lan. Ngày nay, tàn tích của thành phố này trở thành công viên lịch sử Ayutthaya, và được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

[iv] chiến tranh hoa hồng: tên gọi cho một loạt trận chiến giữa gia tộc House of Lancaster và gia tộc House of York trong suốt một thời gian từ năm 1455 đến 1487 để tranh dành ngôi vua Anh quốc. Cuối cùng gia tộc Lancaster thắng, Henry Tudor lên ngôi vua và thiết lập một triều đình kéo dài được 116 năm cai trị Anh quốc. Danh xưng “Wars of the Roses” không dùng trong thời gian xảy ra các trận chiến; nhưng trở nên phổ biến vào thế kỷ thứ 19. Trung quốc dịch là Mân Côi chiến tranh (玫瑰戰爭)

[v] Fletcher nói như thế là để bác bỏ kết luận của các sử gia Pháp được nêu ở đoạn trên đó: do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

[vi] 1 inch bằng 2.54 cm

[vii]lingam biểu tượng cho sinh thực khí của nam giới (林伽是男性生殖器像 lâm già thị nam tính sinh thực khí tượng) vàyonibiểu tượng cho sinh thực khí của nữ giới (約尼是女性生殖器像 ước ni thị nữ tính sinh thực khí tượng). Lingam có hình khối trụ, đặt lên trên yoni có hình khối vuông. Ấn Độ giáo xem đó là hai đại biểu cho sinh mệnh, khai sáng ra thần lực siêu tự nhiên, là nguồn gốc của vũ trụ và tượng trưng cho lực lượng tối cao (印度教林伽認為它代表生命, 象徵 生殖, 創造的超自然神力, 是宇宙之源 和最高 力量的象徵: Ấn độ giáo lâm già nhận vi tha đại biểu sinh mệnh, tượng trưng sanh thực, sáng tạo đích siêu tự nhiên thần lực, thị vũ trụ chi nguyên và tối cao lực lượng đích tượng trưng.)

[viii] 1 yard bằng .91 m

[ix] Các đền đài Angkor luôn luôn được cất theo một biểu tượng để tôn vinh tín ngưỡng, hoặc Ấn Độ giáo, hoặc Phật giáo. Đối với Ấn Độ giáo, họ tôn thờ hai vị thần: Thần Bảo Tồn Vishnu và Thần Phá Hủy Shiva, còn Thần Sáng Tạo Brahma không thấy nhắc đến. Tuy nhiên, Thần Shiva chỉ được thờ cúng đến khoảng cuối thế kỷ XI mà thôi, sau đó Thần Vishnu chiếm vị thế độc tôn, trong ý nghĩa Thần Vishnu là người bảo vệ vũ trụ và các thần, có một mặt và bốn tay. Đền thờ Thần Vishnu có khuôn mẫu của một vũ trụ thu nhỏ, trong đó thành quách tượng trưng cho các dãy núi, hào nước tượng trưng cho các đại dương (trong thực tế là một phương cách phòng thủ hữu hiệu) và ở giữa là núi Tu Di được xem là nơi cư trú của Thần Vishnu. Cả ba vị thần này hợp thành một bộ tam thần Trimurty.

[x] EFEO: École Française d’Extrême-Orient: Học Viện Pháp quốc về Viễn Đông, thường gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ.

[xi] El Nino là sự dao động nhiệt độ bất thường trên mặt nước của vùng Thái Bình dương, thường gọi là dao động vùng phía Nam (Southern Oscillation). Dao động này như một chiếc ghế xích đu giữa vùng phía Đông và vùng phía Tây của Thái Bình dương: khi áp suất không khí cao ở phía Đông thì ở phía Tây lại thấp, và ngược lại. Bởi vì việc nóng biển và đảo ngược áp suất ngay cùng một lúc nên các khoa học gia gọi hiện tượng này là El Nino/dao động vùng phía Nam (El Nino/Southern Oscillation hay gọi tắt là ENSO). Những ngư dân Nam Mỹ cho hiện tượng này cái tên El Nino, nghĩa là “đứa con của Chúa” bởi vì nó xảy ra vào lúc mừng Chúa giáng sinh (Christ Child-Christmas).
Theo: Hoangsa.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét